Page 119 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 119

II.  - XÃ THÔN

          Ta đã thấy rằng gia đình là cơ thể nền tảng là xã hội.
       Buổi  đầu  thì  có  lẽ  một  sô" ít  nhiều  gia  tộc  cùng ở  trong
       một khoảng đất để canh khẩn làm  ăn rồi tổ chức' thành
       đoàn  thể  để  đối  phó  với  quốc  gia,  tức  là  làng  hay  xã
       thôn.  Có làng chỉ  duy một họ tổ chức thành.  Làng ấy có
       thể khai khẩn những đất hoang phê ở chung quanh  mà
       mở  rộng  phạm  vi  dần  ra.  Đến  khi  dân  sô" đông  lên  thì
       làng có thể xin nhà nước chia ra lập một làng mới gọi là
       biệt  triện.  Những  xã  thôn  đất  ruộng  có  chừng  mà  sô"
       người cứ một ngày đông thêm,  thì có người phải di thực
       nơi  khác.  Một  người  gia  trưởng  nhắm  tìm  một  khoảnh
       đất hoang nào ở trong vùng lân cận rồi làm đơn xin nhà
       nước cho trưng khẩn để lập làng,  khi được nhà nước cho
       phép thì người ấy đem gia đình và chiêu mộ thêm nhiều
       gia  đình  khác  để  khai  khẩn  chỗ  đất  được  trưng  và  tổ
       chức  thành  một  thôn  ấp.  Theo  lệ  thường  thì  trong  ba
       năm  đầu  nhà  nước  còn  tha  thuế.  Ruộng  đất  người  nào
       vỡ được thì người ấy có quyền sở hữu.
          Nhà  nước  cũng  thường  khích  lệ  những  cuộc  khẩn
       hoang như  thê  để  mở  mang  thêm  bờ cõi.  Lịch  triều  đòi
       nào  cũng  có  chính  sách  khai  hoang.  Năm  1830  triều
       Minh  Mệnh  sắc  rằng:  phàm  ruộng  đất  hoang  vu  núi,
       rừng,  gò, đông, bờ sông bò suối, bò ruộng, bò đường, tóm
       lại phàm  những nơi  hoang phê",  ai xin trưng cũng  được.
       Triều  Tự  Đức  thì  thưởng vinh  hàm  hoặc  miễn  dao  dịch
       và  binh  dịch  cho  những  người  mộ  dân  khai  khẩn  đất
       hoang.  Theo  lệ  định  năm  Tự  Đức  thứ  28  thì  ai  khẩn
       được  20  mẫu  ruộng  và  mộ  được  10  dân  đinh  thì  có  thể


                                                                   121
   114   115   116   117   118   119   120   121   122   123   124