Page 120 - Việt Nam Văn Hoá Sử Cương
P. 120
trình vói quan địa phương tư bộ để xin lập một làng.
Đôi với những miền hoang vu rộng rãi nhà nưốc
thường dùng chính sách dinh điền và đồn điền, ớ Bắc
Việt miền đất bồi ở bò biển hai tỉnh Ninh Bình và Thái
Bình, triều Minh Mệnh đặt quan (Nguyễn Công Trứ, coi
việc dinh điền, mở thêm được hai huyện Kim Sơn'và
Tiền Hải. Miền nam Trung Việt và tất cả miền Nam
Việt toàn khai khẩn bằng phương pháp dinh điền và
đồn điền. Tại các sở dinh điền thì nhà nước thường
chiêu mộ những hạng lưu dân rồi đặt quan trông nom
cho họ canh khẩn; ở các sở đồn điền thì nhà nưốc bắt
binh lính, hoặc tù binh, hoặc tội nhân khai thác.
Về triều Tự Đức ở Nam Việt còn có nhiều sở đồn điền
do ông Nguyễn Tri Phương tổ chức, sau bị các quan
Thủy Sư Tổng Đốc Pháp giải tán.
Những đất ruộng khai khẩn được ở các sở dinh điền
và đồn điền đều là của sở hữu của những người khai
khẩn, quá hạn ba năm thì phải nộp thuế. Nhà nước lại
còn đặt lệ xá tội cho những kẻ tội nhân nào trong vòng
ba năm khẩn được ba hay năm mẫu đất hoang. Những
dân đinh, binh lính cùng tội nhân canh khẩn phải tổ
chức thành thôn ấp. Nhà nưóc (vua) cấp cho mỗi làng
hay mỗi ấp một đạo sắc chuẩn nhận thành lập.
Theo phong tục và tín ngưỡng của nưốc thì làng nào
cũng thờ một vị thần Thành Hoàng. Những làng mói
nếu do tư nhân đứng lập thì thường thò người khai
canh, tức là người sáng lập làm tiên hiền. Những làng
do nhà nước đặt ra thì thường thò ông quan dinh điền
hay đồn điền nào dân mến nhất, hay là một vị ân nhân
nào của xã thôn.
122