Page 268 - Văn Hóa Ứng Xử Việt Nam Hiện Nay
P. 268
'Dăn £óa ửiìỹ xử U ìèl OCam £ièn naĩ^
các dân tộc. So với người Việt, sô" lần sinh con bình quân ở
phụ nữ các dân tộc thiểu số nhìn chung cao. Càng ngược về
quá khứ, do thiếu kiến thức y tế và chăm sóc sức khỏe bà
mẹ và trẻ em, tỷ lệ hữu sinh vô dưỡng càng lớn. Chẳng
hạn, ỏ các dân tộc Tây Nguyên, tỷ lệ này dao động trong
khoảng 40 - 60%. Tình trạng đẻ nhiều và mong muôn đông
con xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Ví dụ để
khắc phục nạn hữu sinh vô dưỡng; đáp ứng nhu cầu lao
động nương rẫy đòi hỏi nhiều công sức và tính thòi vụ cao;
ở các dân tộc miền núi phía Bắc, nhất là ỏ người Mông, còn
là nhu cầu cần người nổĩ dõi để duy trì và phát triển dòng
họ, gia tộc.
Về tâm lý, thích sinh con trai hay coi gái để nối dõi
phụ thuộc vào cách tính tử hệ của mỗi dân tộc: ở các dân
tộc mẫu hệ là con gái; ỏ các dân tộc phụ hệ là con trai; còn
ở các dân tộc song hệ thì trai gái được coi như nhau.
Nguyện vọng phổ biến hơn cả vẫn là đủ cả trai lẫn gái.
Nguyên nhân không đơn thuần chỉ vì muôn có nếp có tẻ,
mà còn nhằm đáp ứng nhu cầu phân công lao động theo
giới vẫn tồn tại đậm nét tại hầu hết các dân tộc thiểu sô".
Nguyên tắc hôn nhân được tuân thủ phổ biến là ngoại
hôn theo họ và nội hôn theo dân tộc. Theo đó, những người
trực hệ trong một sô" đòi nhất định của cùng một ông tổ
(nếu là xã hội phụ hệ); hay một bà tổ (nếu là xã hội mẫu
269'