Page 267 - Văn Hóa Ứng Xử Việt Nam Hiện Nay
P. 267

IMguyỂn  Thanh  Tuân



         vỢ,  thành  chồng  thông  thường  đôi  trai  gái  phải  qua  hai  lễ
         tục bắt buộc là lễ trao vòng hay chạm vòng (đính hôn) và lễ
         cưới.  Luật tục nhiều  dân tộc  quy định,  trai  gái  đã  qua làm

         lễ  trao  vòng  không  được  phép  có  quan  hệ  yêu  đương  với
         người  khác.  Nếu  một  trong  hai  bên  vi  phạm  hoặc  vì  lý  do
         nào đó, muốn thoái hôn thì họ phải bồi thường danh dự cho
         ông  mối  và  bên  kia  bằng  những  hiện  vật  có  giá  trị  theo
         luật tục.

              Hôn lễ  thường  được  tổ chức  sau  mùa  thu  hoạch.  Đây
         là  lúc nông nhàn và  sẵn  thực  phẩm.  Lễ cưới  tuy  đơn  giản,

         song  nhìn  chung  tốn  kém  so  vỏi  mặt  bằng  thu  nhập  tại
         miền xuôi cũng như miền núi. Tại Tây Nguyên, các dân tộc
         thiểu  sô"  thường  chuẩn  bị  tổ  chức  đám  cưói  trưóc  nhiều
         tháng.  Chi  phí  cho  đám  cưới  (trâu,  bò,  chiêng,  ché,...)
         tương  đương  với  khoảng  trên  1/2  thu  nhập  một  năm  của

         gia  đình.  Còn  ở  người  Khơme,  chi  phí cho  đám  cưối tương
         đương với thu nhập một năm của gia đình nhà trai.

              Tùy  theo  cách  tính  tử  hệ  mà  có  ba  hình  thức  cư  trú
         sau  hôn  nhân:  cư  trú  bên  vỢ  ở  các  dân  tộc  mẫu  hệ  như
         Chàm,  Êđê,  Giarai,  Churu,  Raglai;  cư  trú  hai  bên  ỏ  các
         dân  tộc  song  hệ  như  Bana,  Xơđăng,  Hrê,  Giẻ  -  Triêng;  cư

         trú bên chồng ở các dân tộc còn lại.
               Sinh  đẻ  tự  nhiên,  đẻ  nhiều  lần  và  mong  muôn  có

         nhiều  con  là  tập  quán  và  nguyện  vọng phô biến ở hầu  hết


                                        268
   262   263   264   265   266   267   268   269   270   271   272