Page 266 - Văn Hóa Ứng Xử Việt Nam Hiện Nay
P. 266

Uăn Ăóa ííwy xử U ìệỉ OCơm íìỉện naỳ



         ở  dân  tộc  Kinh  cũng  như  ở  các  dân  tộc  thiểu  số,
   quyền tự do yêu  đương của con cái  được cha  mẹ  tôn trọng.
   Do  mức  độ  phân  hóa  giàu  nghèo  còn  thấp  nên  ỏ  đa  sô" các
   dân  tộc  trong lịch  sử,  kiểu  hôn nhân  mua  bán  nhìn chung
   còn  chưa  rõ  nét.  Tại  một  sô" dân  tộc  nói  ngôn  ngữ  Môn  -

    Khơme  thuộc  vùng  Bắc  Tây  Nguyên  như  Bana,  Xơđăng,
    Giẻ  -  Triêng...  nam  nữ  hoàn  toàn  bình  đẳng  trong  hôn
    nhân. Mọi chi phí cưới xin đều do hai bên trai gái chung lo.
    Tại  nhiều  dân  tộc  khác,  phổ  biến  tục  lệ  trước  ngày  cưối,

    nhà  trai (nếu là xã  hội phụ  hệ) hay nhà  gái  (nếu là xã hội
    mẫu hệ) chuẩn bị  một  món  sính  lễ  có ý nghĩa  tượng trưng
    rồi đem sang gia đình phía bên kia.

          Hôn nhân mua bán theo đúng nghĩa có lẽ chỉ tồn tại ở
    một sô" ít dân tộc.  Chẳng hạn,  ở người Thái với tục ở rể sau
    hôn  nhân;  ở  người  Cơ  Tu,  Tà  ôi,  Bru  -  Vân  Kiều  với  tục
    "đầu tôi" (gả bán non con gái cho người khác).

          Do  bị  chi  phối bởi  tín  ngưỡng  và  cấm  kỵ,  mặc  dù  trai
    gái được tự do tìm hiểu, thậm chí được phép ở bên nhau qua
    đêm, như tục "ngủ mái" của các dân tộc  Cơ Tu, Tà ôi,  Bru -

    Vân  Kiều  dọc  Trường  Sơn,  nhưng  quan  hệ  tính  giao  tiền
    hôn nhân ở nhiều dân tộc đều bị lên án và nghiêm cấm.

          Ngoại  trừ  một  sô"  dân  tộc  như  Kinh,  Hoa,  Chàm,
    Khơme, Tày,  Nùng v.v...  ở đa số các dân tộc còn lại,  lễ thức
    cưới xin tương đô"i đơn giản. Từ lúc yêu nhau đến lúc thành


                                    267/
   261   262   263   264   265   266   267   268   269   270   271