Page 71 - Vấn Đề Bảo Vệ Quyền Sở Hửu Trí Tuệ
P. 71
Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 71
“người dân ở những nước độc lập được coi là những thổ dân căn cứ theo
nguồn gốc của họ có từ cư dân sinh sống tại nước đó, hay tại một khu vực
địa lý nhất định của nước đó, vào thời điểm khi mà đất nước này bị xâm
chiếm hay bị làm thuộc địa, hoặc vào lúc bắt đầu hình thành biên giới hiện
nay của quốc gia này, và là những người không kể địa vị pháp lý của họ
thế nào, vẫn giữ lại một vài hoặc tất cả thể chế chính trị, văn hóa, kinh tế,
xã hội của riêng họ” (Điều 1). Việc xác định bản thân họ là người thổ dân
hay thuộc một bộ lạc được coi là tiêu chí cơ bản để xác định các nhóm
người là đối tượng để được áp dụng các quy định của thuật ngữ (Điều 2).
Mặc dù tri thức thổ dân nhìn chung được xem là tri thức truyền thống,
nhưng không phải tất cả các tri thức truyền thống đều là tri thức thổ dân.
Sự phân biệt giữa hệ thống tri thức “truyền thống” và “thổ dân” này cũng
diễn ra trong lĩnh vực y học cổ truyền dưới một hình thức khác, đặc biệt
tại các nước châu Á.
b) Y học cổ truyền
Tầm quan trọng của y học cổ truyền được WHO chính thức thừa nhận
lần đầu tiên trong bản Tuyên bố về Chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Alma
Ata (năm 1978). Vai trò và tầm quan trọng của y học cổ truyền đã được
WHO xem xét ở quy mô toàn cầu trong Chương trình Y học cổ truyền của
WHO từ năm 1976, chương trình đã chỉ rõ y học cổ truyền là “bản đúc kết
kiến thức, kỹ năng và thực tiễn dựa trên các học thuyết, lòng tin và kinh
nghiệm thổ dân từ những nền văn hóa khác nhau, cho dù có thể giải thích
được hay không, được sử dụng để giữ gìn sức khỏe, cũng như để phòng,
chẩn đoán, chăm sóc hoặc điều trị các căn bệnh về thể chất và tinh thần.
Ở một vài nước, thuật ngữ “y học không theo cách thông thường / y học
thay thế / y học bổ sung” có thể được sử dụng thay thế cho thuật ngữ y
học cổ truyền”.
Ở châu Á, thuật ngữ “y học thổ dân” và “y học cổ truyền” được sử
dụng để phân biệt các đối tượng của định nghĩa này, nhưng lại theo việc tri
thức truyền thống biên soạn, hệ thống lại thay vì chỉ căn cứ vào việc xác
định người nắm giữ kiến thức. Sự phân biệt được đặt ra, đặc biệt ở Nam Á
và Trung Quốc, giữa một mặt là hệ thống “y học cổ truyền” đã hệ thống
hóa lại thành văn và mặt khác là những bí quyết y học không được hệ
thống hóa lại thành văn, bao gồm cả “y học thổ dân” và y học của các bộ