Page 70 - Vấn Đề Bảo Vệ Quyền Sở Hửu Trí Tuệ
P. 70
70 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ... THƯƠNG MẠI
thấy sự do dự về quyết định đưa hình thức này vào, và để dành cho mỗi
nước tự quyết định liệu có đưa hình thức này vào đối tượng bảo hộ các tác
phẩm nghệ thuật dân gian hay không.
Chỉ có di sản “nghệ thuật” mới được bao hàm trong thuật ngữ “các
biểu hiện nghệ thuật truyền thống dân gian”. Điều này có nghĩa là, cùng
với một số những đối tượng khác, tín ngưỡng truyền thống, các quan điểm
khoa học (ví dụ học thuyết về nguồn gốc vũ trụ truyền thống) hoặc chỉ đơn
thuần là những phong tục truyền thống, không thuộc những hình thức
nghệ thuật truyền thống có thể có, sẽ không nằm trong phạm vi “các biểu
hiện nghệ thuật truyền thống dân gian”. Mặt khác, di sản “nghệ thuật”
được hiểu theo nghĩa rộng nhất của thuật ngữ và bao hàm bất kỳ một di
sản truyền thống nào có ý nghĩa về mặt thẩm mỹ. Những tác phẩm bằng
lời, tác phẩm âm nhạc, các tác phẩm qua diễn xuất và các tác phẩm hữu
hình, tất cả đều có thể bao gồm những yếu tố đặc trưng của di sản nghệ
thuật truyền thống và có đầy đủ điều kiện được coi là những biểu hiện
nghệ thuật truyền thống dân gian được bảo hộ.
Định nghĩa trong Quy định Mẫu cũng bao hàm cả những sản phẩm
của sự tìm tòi phát triển cá nhân trong di sản nghệ thuật truyền thống, vì
tiêu chuẩn thường được áp dụng đối với sáng tạo “không phải là sản phẩm
của một cá nhân” không phải luôn phù hợp với thực tế phát triển của nghệ
thuật dân gian.
Kể từ khi Quy định Mẫu được thông qua năm 1982, các văn bản pháp
luật quốc tế ở những lĩnh vực khác ngày càng sử dụng nhiều những thuật
ngữ như “tri thức truyền thống, cải tiến và tập tục”, hay “kiến thức thổ dân,
văn hóa và những tập tục truyền thống để đề cập tới những đối tượng có liên
quan. Những thuật ngữ này dùng để đề cập tới đối tượng bao gồm mà
không chỉ giới hạn ở những đối tượng được bao hàm trong thuật ngữ “các
biểu hiện nghệ thuật truyền thống dân gian” của Quy định Mẫu.
a) Tri thức bản địa
Các văn bản pháp luật khác cũng sử dụng thuật ngữ theo hướng quan
điểm khác “tri thức bản xứ”. Đây là cách sử dụng thông thường để xác
định kiến thức do “thổ dân” nắm giữ. Thuật ngữ “thổ dân” được định
nghĩa trong Công ước số 169 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) để chỉ