Page 199 - Vấn Đề Bảo Vệ Quyền Sở Hửu Trí Tuệ
P. 199

Chương 3: Thương hiệu ... thương mại của các doanh nghiệp            199


                        tranh chẳng hạn. Trong trường hợp này, hợp đồng có thể được cứu vãn
                        bằng cách tách các điều khoản xung đột ra, với điều kiện các điều khoản
                        xung đột này không nằm trong phần chủ chốt của hợp đồng.

                             Việc sửa hợp đồng có thể được thực hiện trong trường hợp các bên
                        mắc lỗi giống nhau. Có một số ngoại lệ hẹp đối với quy định này, đó là đối
                        với trường hợp có gian lận, không nhất quán (khi một bên giao dịch biết
                        hợp đồng có mắc lỗi có lợi cho họ nhưng không làm gì để sửa lỗi) và giao
                        dịch đơn phương. Tiêu chuẩn về bằng chứng cho loại lỗi này là rất cao và
                        gánh nặng tìm ra bằng chứng chắc chắn thuộc về bên muốn sửa hợp đồng.
                        Khi các bên đã đạt được thỏa thuận sau một quá trình đàm phán kéo dài,
                        tiêu chuẩn về bằng chứng còn có thể cao hơn.

                             c) Tác động đối với các bên được chuyển quyền thứ cấp
                             Bên  được chuyển quyền không  được phép chuyển nhượng hoặc
                        chuyển quyền sử dụng thứ cấp nếu không được sự đồng ý rõ ràng của bên
                        chuyển quyền. Phạm vi chuyển quyền thứ cấp không được vượt quá phạm
                        vi quy định trong hợp đồng chuyển quyền chính. Theo nguyên tắc chung,
                        hợp đồng chuyển quyền thứ cấp sẽ kết thúc khi hợp đồng chuyển quyền
                        chính chấm dứt. Khi bên được chuyển quyền thứ cấp phải chịu thiệt hại do
                        bất công bắt nguồn từ cách quản lý không hợp lý của bên chuyển quyền và
                        bên được chuyển quyền, Luật Công bằng sẽ được áp dụng để đạt được sự
                        công bằng cho bên chịu thiệt hại.
                             d) Luật Cạnh tranh, Sở hữu trí tuệ và Chuyển giao quyền sử dụng

                             Thoạt nhìn có vẻ Luật Cạnh tranh và Luật SHTT xung đột với nhau.
                        Cơ sở của quan điểm này là Quyền Sở hữu trí tuệ tạo ra các quyền độc
                        quyền, trong khi Luật Cạnh tranh tìm cách loại bỏ sự độc quyền. Tuy nhiên,
                        Quyền SHTT hiếm khi tạo ra sự độc quyền khi mà gần như lúc nào cũng có
                        các loại công nghệ thay thế. Hơn nữa, lý thuyết này không coi sáng tạo đổi
                        mới trên các thị trường như một biện pháp tăng cường cạnh tranh. Sáng tạo
                        đổi mới được xem là yếu tố sống còn nhằm tăng cường cạnh tranh. Tuy
                        nhiên, sáng tạo đổi mới cũng rất phức tạp, đắt đỏ và kéo theo sự không chắc
                        chắn, rủi ro, thí nghiệm kiểm tra và thử nghiệm.

                             Nói một cách đơn giản, mục đích của Luật SHTT là cấp cho chủ sở
                        hữu quyền phần thưởng dưới dạng các quyền độc quyền trong khoảng thời
   194   195   196   197   198   199   200   201   202   203   204