Page 93 - Phòng Và Chữa Các Loại Đau Đầu
P. 93
PHÒNG VÀ CHỮA CÁC BỆNH ĐAU ĐẦU
2. Kích thích tai trong.
3. Những thay đổi của tuần hoàn dịch não - tuỷ.
Người ta thường thấy có tư thế bắt buộc của đầu
trong u hô" sọ sau. Theo I. J.Razdolskij (1941), tư thế cúi
đầu ra trước là đặc trưng cho u não thất IV.
Đau đầu do u thường xuất hiện hoặc lại đau tăng lên
khi ép các tĩnh mạch.
Một phương pháp được áp dụng rộng rãi để khách
quan hoá đau do u là ép động mạch cảnh và quan sát của
phản ứng với truyền các dung dịch ưu trương. Đa số các
trường hợp này dẫn tới giảm đau đầu. Người ta chỉ thu
được những kết quả có thể đánh giá được, nếu đường lưu
thông dịch não-- tuỷ không bị nghẽn (I.J.Razdolskij và
c s, 1954). ở các bệnh nhân với khối u ở thuỳ thái dương
và có kẹt một phần của nó ở khe lều tiểu não thì sự
truyền các dung dịch ưu trương sẽ gây tăng đau đầu do
hiện tượng kẹt tăng lên.
Bằng những kinh nghiệm quan sát lâm sàng,
I.J.Razdolskij và c s đã đi đến kết luận rằng: bản chất
của phản ứng khi truyền các dung dịch ưu trương nó có ý
nghĩa chẩn đoán phân biệt và chẩn đoán định khu nhất
định. Ví dụ, người ta có thể chẩn đoán định khu đúng,
nếu còn chưa rõ liệu nó là u ở dưới hay trên lều tiểu não
thì phải đi sâu tìm tính chất gõ đau khu trú của u não.
Khi đó, người ta không chỉ nghe câu trả lời của bệnh
nhân mà còn phải để ý tới nét mặt của họ nữa. Người ta
so sánh cái đau của các vùng đầu nằm gần sự nhậy cảm
với gõ của các phần đôi xứng hộp sọ.
Đau khu trú khi gõ chỉ có ý nghĩa chẩn đoán khi nó
trùng hợp với khu trú của đau đầu. Ví dụ: gõ đau khu trú
ở vùng xương thái dương và xương mũi đồng thời bệnh
nhân cũng khai đau đầu ở vùng này thì chính là đặc trưng
93