Page 318 - Phòng Và Chữa Các Loại Đau Đầu
P. 318

BỆNH  HORTON


         lồ  của  người  già  để chỉ bệnh  Horton  và bệnh  thấp viêm
         khốp  của  những  đai  (đai  thắt  lưng  và  đai  vai)  bệnh
         Forestier;  hay  đau  nhiều  cơ  do  thấp  (polymyalgia
         rheumatica  để  chỉ  bệnh  giả  viêm  đa  khớp  gốc  chi
         (pserudo - polyarthrite rhizomélique) vì có sự kết hợp khá
         chặt chẽ giữa viêm động  mạch thái  dương với trạng thái
         đau cơ khớp  trên lâm  sàng và  cả  trong xét  nghiệm  sinh
         học,  miễn  dịch...  Tác  giả  B  Hamrin  (1972)  gọi  chung  là
         viêm  động  mạch  đau  đa  cơ  (polymialgia  arteritica)  mà
         hiện  nay các tác  giả Anh  -  Mỹ còn  đang ưa  dùng. Y văn
         đã thông báo, thường có những tổn thương của viêm động
         mạch thái dương kết hợp trong 2/3 những trường hợp giả
         viêm đa khớp gốc chi.
             Sau này cũng cần phải phân biệt và nghiên cứu, bàn
         luận  thêm  nữa  về  mối  quan  hệ  với  bệnh  Takayashu
         (Fiessinger  J.N...1982)  và  bệnh  viêm  quanh  động  mạch
         thể nút của người già (Godeau P...1979). Như phần trước
         đã nói, dựa trên những đặc điểm biến đổi về GPBL., hiện
         nay có xu hướng ưa dùng thuật ngữ "Viêm động mạch tế
         bào khổng lồ".
             Theo  quan  điểm  của  chúng  tôi,  vẫn  nên  dùng  tên
         bệnh  là  bệnh  Horton,  với  một  nội  dung,  hàm  ý  là  bệnh
         viêm  động  mạch  mang  đặc  tính  lan  tràn,  toàn  thân,
         nhưng  khu  trú ưu thế thường  gặp  nhất  là  ở  động  mạch
         thái dương.
             Do  những đặc  điểm  phức  tạp  của  bệnh  nên  một vài
         tác  giả  (Grolleau  JY.  Barrier.  J)  đã  đề  xuất  một  định
         nghĩa hơi dài  như sau:  "Bệnh  Horton  là bệnh viêm toàn
         động  mạch        dạng  bị  viêm        nhiễm     (panartérite
         inílammatoire) bán cấp của người già, có tế bào khổng lồ
         khu  trú  theo  từng  đoạn  và  nhiều  ổ  (pluriíbcale),  chiếm
         ưu  thế trong khu  vực  đầu  (chủ  yếu  ở  những  nhánh  của
         động  mạch  cảnh  ngoài,  mà  thường  là  động  mạch  thái
         dương),  nhưng  có  khả  năng  lan  tràn  khu  trú  ở  tất  cả



         318
   313   314   315   316   317   318   319   320   321   322   323