Page 202 - Phong Tục Thờ Cúng Của Người Việt
P. 202
Thần tích Ngọc Hoa không có nhưng mọi người thừa nhận sự kiêng húy danh xưng
"Hoa" của bà con địa phưong. Các cụ già còn kể thêm: "Ngày xưa Vua Hùng có ba
người con gái lên trông giữ ở ba cửa rừng, một ỏ núi Giùm bên bờ sông Lô (Tuyên
Quang), một ỏ Đông Cuông bên bờ sông Hồng (Yên Bái) và một ở Thác Bà bên bờ
sông Chảy. Tuy nhiên, thần tích của Đển Đông Cuông và đền Giùm không xác định
như vậy.
Nữ thần Diệu Minh Đạt là vị duy nhất được nhắc đến trong sắc phong cùng văn
chầu và bài khấn. Ngài choàng khăn đỏ, vận áo đỏ. Không rõ thân thế. Ngoài thần
Diệu Minh Đạt, đền còn thờ Tam Phủ và các Hoàng Cô Hoàng Cậu như các đền
khác.
Đầu năm, ngày 8 và 9 tháng giêng âm lịch, Đền Mẫu Thác Bà tổ chức tiệc
mẫu: Lễ chay ở hậu cung có bốn bát chè kho đậy kín bằng bống bát úp trên và
thanh bông hoa quả. Ngoài cộng đồng bày lễ phẩm mặn; gà trống luộc chín, oản,
xôi, hoa quả. Hát chầu văn ca ngợi công đức Mẩu và rước kiệu Mẩu lên đền Đồng
Sủng (thuộc xã Văn Chính nay đã chìm ngập dưới lòng hồ). Quanh đền diễn ra các
trò chơi: ném còn, đánh yến, chọi gà, vật...
Cuối năm, lễ thường vào ngày 10/10 âm lịch. Khách hành hương và con nhang
đệ tử phần đông là dân Yên Bình. Có một loại thiện nam tín nữ độc hữu của đền
Thác Bà: khách bái vọng gồm các chủ bè, chủ buôn sông nước và chân sào mỗi
khi thuyền bè qua đền đều “ném tiền xuống thác" và đốt hương vàng vái với, cầu
xin Mẩu và chư thẩn phù hộ bình yên.
Đồ thờ trong Đền gồm: một pho tượng gỗ, sơn thiếp, vận sắc phục đỏ, thờ
trong hậu cung. Bốn góc có bốn pho tượng nữ gỗ tô mầu tượng quanh tượng Mẫu.
Sắc phong có 6 bản gồm: Tự Đức năm thứ 33 (1880) gồm một bản chính và
một bản sao phong cho thần nữ Diệu Minh Đạt. Đồng Khánh năm thứ 2(1887)
phong cho thần nữ Thục Diệu Minh Đạt. Duy Tân năm thứ 3 (1907) phong lần thứ 2
cho thần nữ Thục Diệu Minh Đạt. Khải Định năm thứ 9 (1924) phong cho thần nữ
Huyền Diệu Minh Đạt... Ngoài ra còn có một sắc phong đời Lê cảnh Hưng bị thất
lạc.
Sau khi được trùng tu tôn tạo, nhìn về xuôi đền Mãu tọa lạc bôn hữu ngạn sông
Chảy, nhà máy Thủy điện Thác Bà định vị giữa dòng, khối tượng đài an bài ngay
ngã ba sát móp đường bến Cảng và đầu đường đập bên phải nhà máy, làm gạch
nối giữa đền Mẫu và nhà máy Thủy điện. Cả ba dang tay hướng về đất Tổ Hùng
Vương, tạo sinh một bình tuyến độc hoành, mang trong mình âm hưỏng, ngôn ngữ,
tư duy vể quá khứ, hiện tại, vỊ lai.
Hiện nay, hậu cung Đển Mẫu có Tông tượng Mẫu Thác Bà; Cung giữa: Thờ
Tam Tòa Thánh Mảu; Cung Cộng đông ngoèil*. G\Qa \à Khoang Tứ Phủ, bên phẻi\
(nhìn vào) bày tượng ông Hoàng Bát tức ông Bát Nùng, bôn trái là tượng bà Thủ
204