Page 195 - Phong Tục Thờ Cúng Của Người Việt
P. 195

nặng tính truyền thống và là một phong tục đậm đà bản sắc dân tộc, cần được duy trì.




     6.  NGHI THỨC, NGHI LỄ  CƯỚI ĐẶC BIỆT CỦA NGƯỜI HÀ NỘI

         Nghi thức, nghi lễ cưới ở Hà Nội so với các vùng khác có quy định nghiêm ngặt
     hdn, nhưng trải qua một thời gian nghi thức đó cũng đã thay đổi theo tiến bộ của xã
     hội. Tuy nhiên, dù có thay đổi gì cũng phải giữ 3 lễ:

         Chạm  ngõ  là  lễ tiếp  xúc đầu tiên,  chính thức của  hai  gia đình  nhà trai và  nhà
     gái.  Ngày nay,  những gia đình ỏ  Hà Nội vẫn giữ nguyên nếp xưa,  lễ chạm  ngõ vẫn
     được xem  là  thủ  tục  cẩn  thiết,  để  giữa  hai  gia  đình  thưa chuyện  với  nhau.  Sau  lễ
     chạm  ngõ,  người  con  gái  được  xem  như  có  ndi  có  chốn,  bước  đầu  để  tiến  tới
     chuyện hôn nhân.

          Sau lễ chạm  ngõ là đến lễ ăn hỏi.  Dù  là tầng lớp nào thì cũng không thể thiếu
     được cơi trầu. Một lễ ăn hỏi của người Hà Nội thì không thể thiếu cốm và hồng. Nếu
     gia đình  khá giả thì ngoài cốm - hồng và trầu cau còn có thêm  lợn sữa quay. Đồ lễ
     ăn  hỏi  gắn  liền  với  đặc sản  của vùng  đất Hà Thành,  gồm  có:  bánh  cốm,  bánh  su
     sê,  mứt  sen,  chè,  rượu,  trầu  cau,  thuốc  lá...  Dù  lễ  vật  nhiều,  ít  nhưng  không  thể
     thiếu bánh su sê, ngày xưa gọi là bánh “phu thê”, một số địa phương gọi chệch ra là
     bánh “su sê” là biểu tượng của đôi vợ chồng duyên phận vẹn toàn. Thông thường lễ
     ăn hỏi gồm có 3 lễ:  lễ đàng  nội,  lễ đàng ngoại và  lễ tại gia.  Lễ tại gia thường được
     chia ra đưa kèm theo người được mời cưới.

         Thời gian sau khi ăn hỏi đến lễ cưới thông thường là dưới  10 ngày. Lễ rước dâu
     ngày xưa có  rất nhiều thủ  tục, đi đầu đám  rước là những người giàu có địa vị trong
     làng xã,  khi đón dâu ra đến đầu làng còn có  lễ chăng dây, đầu  làng hoặc đầu phố
     (lễ  chăng  dây đến  đầu  thế  kỷ  XX vẫn  còn),  muốn  đi  qua  phải  đưa  một  ít tiền.  Ăn
     uống, tiệc tùng diễn  ra trước ngày cưới  1  ngày (bây giờ thường tổ chức ngày trong
     ngày cưới).  Sau  khi  Hà  Nội đô thị hóa, dân cư tập trung chủ yếu ỏ trung tâm thành
     phố,  là  khu  vực 36  phố phường thì  phong tục cưới xin cũng vì thế thay đổi  do tiếp
     thu trình độ văn hóa phương Tây. Đám cưới bắt đầu xuất hiện thiệp báo hỷ, khi đưa
     thiệp mời cưới phải đưa kèm theo chè và hạt sen (lấy từ lễ ăn hỏi). Đến nay tục này
     vẫn còn được giữ lại. Nếu là đám cưới của những gia đình khá giả, phải có quả phù
     tang (dùng để đựng đổ lễ, dài từ 80cm đến  1m) do hai người khiêng, đựng trầu cau,
     lợn  sờn  son  (tục  này  vẫn  được  giữ  tfước  năm  1945).  Sâm  banh  được  mô  ra  báo
     hiệu  một  lễ  cưới  bắt  đầu,  rượu  sâm  banh  với  bánh  sâm  ba  là  hai  thứ  không  thể
     thiếu trong  lễ  cưới của những  người phong  lưu.  Nhưng dù  là  người giàu  hay nghèo
     trong đám cưới cũng chỉ dùng tiệc ngọt (không dùng mặn).

         Trong khl đón dâu, cô dâu chú  rể phải làm lễ gia tiên, lễ này như một sự tưởng
     nhớ đến cội  nguồn, tổ tiên.  Sau  lễ thành  hôn,  hai vợ chổng tân  hôn trô về  nhà  gái

                                                                                            197
   190   191   192   193   194   195   196   197   198   199   200