Page 193 - Phong Tục Thờ Cúng Của Người Việt
P. 193

- Làm cỗ  bình thường  (gọi cỗ “bàn than”): chỉ có  mấy món chế biến từ thịt lợn:
     luộc, rang, lòng, có thể thêm đĩa giò.
         - Làm cỗ to (gọi là cỗ “đồ Tàu”) có những món cầu kỳ hơn, thường mỗi mâm có
     có bốn bát và tám đĩa: giò, nem, ninh, mọc, nấm, bóng...

         Có gia đình khá giả làm cả bò, lợn, gà (hoặc dê) gọi là cỗ “tam sinh”.

         Những giỗ làm theo phạm vi  rộng thường 30 mâm, có nhà tới hàng trăm  mâm,
     trong phạm vi hẹp độ 5-10 mâm (mỗi mâm 6 người).

         Trước  ngày giỗ  độ  10  ngày,  ông trưởng  (con trai  đầu)  mời tất cả  con trai,  con
     gái của người mất đến họ để thống nhất cách làm giỗ và phân công mỗi người một
     nhiệm  vụ;  người  mua thực  phẩm,  người  mượn  bát đũa,  mâm  nồi,  người  dựng  rạp.
     Các người con tự nguyện đóng góp, tùy khả năng và tùy tâm, không bổ bán, không
     chia đều.  Sau  khi thống  nhất,  hai vỢ  chồng trưỏng  nam  phải đích thân đi  mời từng
     nhà: “Tiếng chào cao hơn mâm CỖI", có nhà ế hàng chục mâm cỗ chĩ vì sơ suất khi
     mời.

         Cũng như các nơi khác, ở đây nhà nào cũng có một bàn thờ gia tiên đặt ở gian
     giữa -  nơi trang trọng  nhất, từ hai  cột chính  đến  sát tường sau.  Nhà  nghèo thì  bàn
     thờ  là  một tấm  gỗ  sơn  dỏ  nối  hai  cột chính  với  hai  cột sau. Trên tường  chính  giữa
     dán  một vuông  giấy đỏ  có  viết một chữ  Hán to “Phúc"  hoặc  "Thẩn". Trên tấm  gỗ,
     đặt ba bát hương, bát giữa kê cao hơn thờ thần linh, bát bên phải thờ gia tiên và bát
     bên  trái  thờ  các  "bà  cô,  ông  mảnh"  -  những  người  chết  chưa  vợ,  chưa  chồng  và
     được gia đình coi là linh thiêng. Hai góc trước của bàn thờ có hai cây nến tiện bằng gỗ.

          Nhà  khá  hơn thì bàn thờ  là  một án thư có trang trí hoa văn,  sơn  son  hoặc sơn
     then  (đen), đèn  nến bằng gỗ tiện sơn son.  Nhà giàu thì chạm trổ "tứ linh"  (bốn con
     vật  thiêng:  long  (rồng),  ly  (kỳ  lân),  quy  (rùa),  phượng  (chim  phượng  hoàng);  mặt
     trước án thư là  một tấm gỗ quý chạm  "mai long" (cây hoa mai  uốn hình  rồng)  hoặc
     chữ "ngũ  long"  (năm con rồng quây thành một vòng tròn), tất cả đều bằng sơn son
     thếp  vàng.  Trên  án  thư có  bộ  "tam  sự"  bằng  đồng,  có  nhà  còn  thêm  bộ  đài  rượu
     bằng gỗ sơn son hoặc bằng đồng (gồm ba khối hình ống, đáy cao, có nắp đậy, trên
     mỗi đáy đặt một chiếc chén  hạt mít,  khi cúng cơm,  gia chủ  mở  nắp,  rót vào chén).
     Có nhà thêm ống cắm  hương chưa thắp,  mâm bồng để bày hoa quả...  Những năm
     từ giữa thế kỷ XX, khi kỹ thuật chụp ảnh (hình) phổ cập, thì trên án thư còn đặt ảnh
     những  người đã  mất; trên tường sau còn treo một bức hoành, có 3 - 4 chữ Hán to,
     ghi  nguyện vọng,  sự cầu  mong  của gia đình và  đôi  câu đối  phẳng  hoặc hình  lòng
     máng  nói  về  công  đức của tổ tiên  và  lòng  hiếu  của con  cháu; tất cả  đều  sơn  son
     thiếp vàng, ở các nhà thờ “đại tôn", sau án thư là một tấm cửa võng, chạm trổ tinh
     vi, sơn  son thiếp vàng,  phía sau treo hai  cánh  màn  bằng vóc hoặc nhiễu đỏ,  ngăn
     án  thư với  "hậu  cung",  khi  cúng,  gia  chủ  vén  màn  sang  hai  bên,  để  lộ  cung  sau.
     Hậu  cung  là  một  cái  bục  lớn,  cao  ngang  án  thư bằng  gỗ  hoặc  xây  gạch,  sát đến

                                                                                            195
   188   189   190   191   192   193   194   195   196   197   198