Page 194 - Phong Tục Thờ Cúng Của Người Việt
P. 194
tường sau, trong cùng no một chiếc bàn vuông, trên đặt chiếc ngai sơn son thiếp
vàng, trên ngai đặt chiếc bài vị gỗ mấy dòng chữ Hán: họ, chi, quê... Hai bên ngai,
đặt hai giá cắm nến; khi cúng, gia chủ thắp nến để chiếu sáng cho cung. Trước
ngai có một chiếc mâm gỗ vuông cao để đặt cỗ khi cúng cơm. Thường vào ngày
giỗ trong, nhà ông trưởng nam tấp nập từ chiều hôm trước, để hoàn tất việc chuẩn
bị và để cúng cơm.
Thường vào ngày giỗ trọng, nhà ông trưòng nam tấp nập từ chiều hôm trước,
để hoàn tất việc chuẩn bị và để cúng “tiên thường". Hôm giỗ, mọi việc diễn ra khẩn
trương từ 2 - 3 giờ sáng dưới ánh đèn đuốc, nhóm giết lợn, giết bò, chuẩn bị thực
phẩm, người vo gạo, thổi xôi... Tiếng cóc cách giã giò hòa tiếng lao xao người nọ
hỏi người kia, lệnh của ông trưỏng vang vang... tạo ra một không khí nhộn nhịp của
một nhà có đám.
Khoảng 8 giờ sáng, các mâm cỗ đã xong, một hoặc ba mâm được để lên bàn
thờ (hoặc cung sau), ông trưỏng nam, áo the khăn xếp, bước lên chiếc sập trước
bàn thờ để thắp hương, đèn nến rồi đứng giữa sập, hai tay chắp giữa ngực, lên gối
xuống gối lễ ba lần, đoạn đứng nghiêm, mười ngón tay đan vào nhau và đưa lên
ngang trán, miệng lầm rầm khấn. Bài nhấn có ba phần. Mỏ đầu là ngày tháng năm
(âm lịch), tại nhà thờ ở thôn, xã, huyện, tỉnh... tiến chủ tên gì, nhân ngày giỗ ai,
thành tâm cúng tiến những gì. Phần sau là gia chủ kính mời từ thần linh, thổ địa, táo
quân... đến tên họ và hiệu, nơi an táng các vị trong gia đình theo thứ tự từ trên
xuống (chỉ khấn nam và dâu họ, nữ không khấn, trừ trường hỢp chết chưa có
chồng). Cuối bài khấn là những cầu xin. Khấn xong, ông trưởng nam lễ một lễ và
ba vái nữa, rồi rót rượu cúng. Một số họ lớn, khi giỗ tổ họ, tổ chức dâng hương tế tổ
và thay bài khấn bằng một bài văn tế, ông trưỏng lễ xong thì đọc bài văn tế, rồi
đem ra sân đốt như đốt sớ ở đình chùa.
Khi ông trưỏng nam khấn xong, những người đến dự giỗ lần lượt già trước, trẻ
sau vào lễ, người nào cũng đem một ít hoa, quả hoặc vàng hương, trầu rượu đặt lên
bàn thờ rồi lễ, mỗi người ba lễ một bái, nam thì lễ như ông trưỏng, nữ thì ngồi vào
góc sập, chắp hai tay trước ngực, khi cúi thì giáp mặt tận chiếu, hai bàn tay xòe ra
đặt hai bên đầu. Những bà gia đình có đại tang (bố mẹ hoặc chồng mới chết) phải
lật một phẩn chiếu, ngồi xuống mặt sập, hai tay lật ngửa vòng khăn trắng quấn tóc
mà lễ.
Thường cháy dỏ tuần hương thứ hai thì cúng cơm và cuối tuần hương thì ông
trưởng nam tạ lễ, hóa vàng rồi hạ cỗ cho con cháu xin lộc.
Sơ qua phong tục cúng giỗ của người Hà Nội khoảng giữa thế kỷ XX như vậy
để thấy ông cha ta rất cẩn trọng khi cúng giỗ. Giỗ là để họp mặt gia đình, để tưỏng
nhớ và noi gương tốt của những người thân trong gia đình đã mất, đó là việc hiếu, là
một hoạt động tâm linh của người Việt nói chung, người Hà Nội nói riêng. Nó mang
196