Page 192 - Phong Tục Thờ Cúng Của Người Việt
P. 192

móng của các vị tiền hiền, và cầu xin vong linh các vị phù hộ độ trì cho.

               Các cụ chia giỗ làm hai loại: giỗ trọng và giỗ thường.

               Giỗ trọng là giỗ những người thân mới mất, thường là ông bà, cha me. Còn giỗ
          thường  là  giỗ  những  người  d thế  hệ  xa  hơn:  cụ  kỵ,  chú  bác,  cô,  anh  chị...  Các cụ

          vẫn truyền cho con cháu câu: “Ngũ  đại  mai tiền chi” (năm đời  không còn chủ), tức
          là từ đời thứ 5 trở lên (đời kỵ) các cháu chắt không phải cúng giỗ nữa, nhưng những
          ngày Tết và  những  ngày giỗ khác, các vị từ đời thứ năm trỏ  lên vẫn được tiến  chủ

          (người  đứng  lễ)  khấn,  mời  về  "đồng  hưỏng"  cùng  vong  linh  những  người  đã  khuất
          của gia đình.


               Nhân dân ta mang truyền thống “uống nước nhớ  nguồn"  nên  hằng năm  những
          vị  khai  sáng  ra  một dòng  họ  -  được suy tôn  là  “khỏi  tổ”  hoặc “ôthủyổ”  - vẫn  được
          chắt chút cúng giỗ ở  nhà thờ “đại tôn” (nhà thờ của họ). Trong  khoảng 20  năm trở
          lại đây, nhiều nhà thờ  họ được xây lại, được tôn tạo sửa chữa tôn tạo và việc cúng
          giỗ tổ tiên được khôi phục. Giỗ họ là dịp để các chắt chút... của tổ gặp nhau, trước
          tỏ  lòng thành kính với tổ,  sau  là  nhận  họ,  nhận  hàng.  Nhiều  họ,  ngày giỗ tổ còn  là
          ngày động viên chắt, chút...  làm  những việc tốt, tuyên dương những chắt, chút mới
          tốt nghiệp đại  học,  trên  đại  học,  có  phần thưởng cho những  chút,  chít  mới  đỗ vào
          đại học hoặc học giỏi, ở  Phú Thọ, còn có phong trào “dòng  họ tự quản” với  những
          “tộc ước” rất cụ thể.
               Riêng ngày giỗ trọng thì mỗi gia đình tổ chức một khác.

               Người Hà Nội có một nếp sống rất đẹp là đám ma đám giỗ thì tùy tâm gia chủ,
          tổ chức như thế nào do gia đình bàn bạc thống nhất. Các cụ truyền dạy: “Đó là việc
          hiếu, mọi người đến không phải vì cỗ to, vì miếng ăn,  mà là để tưởng nhớ  người đã
          mất, vì  họ  hàng  làng  xóm  tối  lửa tắt đèn  có  nhau”.  Vì vậy,  các đám  ma,  đám  giỗ,
          không ai  buông  một lời  chê,  không  có  cãi vã,  to tiếng,  say  rượu,  cờ  bạc...  Các cụ
          rất coi trọng  cỗ,  chứ không  coi  trọng  cỗ.  Ngày giỗ  lấy tâm  thành  là  chính  chỉ cần
          “bát cơm, quả trứng” cúng  là  đủ. Vì vậy,  hầu  như tất cả các gia đình ở  Hà  Nội, dù
          làm giỗ to nhỏ, nhiều ít, mâm cao cỗ đầy như thế nào thì gần cuối buổi lễ đều dâng
          lên bàn thờ một bát hoặc một liễn cơm và một quả trứng vịt hoặc gà luộc đã bóc vỏ,
          và bóp vỡ một chút ở chỗ ít lòng trắng để lộ phần lòng thêm một ít muối bên cạnh.

               Xưa  những  đám  giỗ  trọng  ỏ  đây có  hai  cách  tổ  chức  gần  như là  lệ  làng:  Làm
          mở rộng đối với những giỗ mới, nhất là giỗ đầu  (một năm sau  ngày mất và giỗ  hết
          (hai  năm  sau  ngày  mất,  có  nhà  làm  vào  ngày thứ  100  sau  hai  năm  gọi  là  giỗ  bỏ
          tang hay “bỏ trở” - từ sau ngày đó, con cháu không phải để trỏ).

               Làm trong phạm vi hẹp (chú  bác, anh chị em, con cháu)  rượu từ giỗ sau giỗ bỏ
          tang trỏ đi. Gia chủ có làm rộng cũng ít người đến.

               Về cỗ, có hai loại, tùy hoàn cảnh gia đình mà chọn:


          194
   187   188   189   190   191   192   193   194   195   196   197