Page 211 - Những bài Làm Văn 12
P. 211

-  Bên  bờ  sông,  đàn  hươu cúi đầu  ngốn búp cỏ  gianh đẫm sương đêm.  Bờ sõng
      hoang dại như một bờ tiền sử... Ngôn ngữ của đoạn văn này giàu chất thơ.
        * Hình ảnh người lái đò sông Đà:
          Là người con của Sông Đà:
          - Sinh ra bẽn bờ Sông Đà, uống  nước Sông Đà từ nhỏ, lặn hụp ngày ngày trong
      dòng sông.
          -  Mười  năm  lái  đò  dọc trên  Sông  Đà,  ông  hiểu  rõ  tính  nết của  sông  như thuộc
      lòng bàn tay mình.
          - Ông có đủ tài, đủ  sức để “trị” được sự hung dữ của Sông Đà.
          - Gắn bó tha thiết với con sông. Sông Đà,đã thành máu thịt của ông lão lái đò.

        3.  Kết bài:
          - Nguyễn Tuân đã vận dụng hết tài năng quan sát, miêu tả, nhận xét... của mình
      để tô  đậm  những  nét dữ dội của Sông  Đà  qua những  hình  ảnh,  âm thanh sinh  động
      và đặc  sắc,  vừa giàu chất tạo  hình vừa có  tính  trí tuệ.  Những dòng chữ của  Nguyễn
      Tuân biến hoá khôn lường.
          - Tuỳ  bút  Người lái đò  Sông  Đà có  giá trị nội  dung và  nghệ  thuật xuất sắc, thể
      hiện tình  cảm  yêu  mến th^ốt tha của tác giả đối với đất nước và  co’n  người Việt  Nam
      yêu dấu.

      M.  BÀI LÀM
         Nguyễn Tuân sinh năm  1910, trong một gia đình nhà Nho, quê ở làng Nhân
      Mục  (làng  Mọc),  huyện  Từ  Liêm,  Hà  Nội.  ông  học  Trung  học  ở  Nam  Định,
      tham  gia  bãi  khoá  chống  thực  dân  Pháp  rồi  bỏ  học.  Nguyễn  Tuân  viết văn,
      làm  báo sớm,  nổi tiếng với  loạt truyện ngắn đăng trên các báo  Tao Đàn,  Tiểu
      thuyết thứ bảy ưa  được đánh  giá  là  cây  bút tiêu  biểu  cho văn  xuôi  lãng  mạn
      trước  Cách  mạng  tháng  Tám  năm  1945  với  tập  truyện  ngắn  nổi  tiếng  Vang
      bóng một thời, các tập  Tuỳ bút I (1941),  Tóc chị Hoài (1943),  Tuỳ bút II (1943).
      Sau  Cách  nạng  tháng  Tám,  cùng  với  phần  lớn  văn  nghệ  sĩ,  Nguyễn  Tuân
      tham  gia kháng  chiến, theo sát bộ  đội trong  các chiến  dịch  lên Tây Bắc, vào
      Quảng Trị... Nhiều tập tuỳ bút đã ra đời, khẳng định sở trường của ông: Dường
      vui  (1949),  Tuỳ  bút  kháng  chiến  (1955).  Trong  giai  đoạn  xây  dựng  xã  hội  ở
      miền Bắc và đấu tranh chống Mĩ - nguy, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
     Jiước,  Nguyễn  Tuân  sáng  tác tuỳ  bút  Sông  Đà  (1960)  và  Hà  Nội  ta  đánh  Mĩ
      giỏi (^ 972).
         Nguyễn Tuân có vốn văn  hoá uyên bác, có tác phong làm việc rất nghiêm
      túc, viết gì cũng nghiên cứu,  điều tra kĩ lưỡng.  Khi viết, ông thường chú  trọng



      2 1 0
   206   207   208   209   210   211   212   213   214   215   216