Page 208 - Những bài Làm Văn 12
P. 208
như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo... Rồi bỗng dưng không biết
chuyện gì mà nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn.
Hoặc có lúc nó reo như đun sôi lên một trăm độ muốn hắt tung đi một cái
thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm một ấm nước sôi khổng lồ. Nhưng
không đâu tiếng nước nghe lạ như ỏ những cái hút xoáy, ổ đó nước ặc ặc lên
như vừa rót dầu sôi vào.
Tiếng nước đã ghê, sức nước còn đáng sợ gấp bội. Mặt sông cũng có ổ
gà như mặt đường cạn, đi vào ổ gà sông là thuyền bị giật xuống bị dồi lên.
Thuyền đi lầm luồng nước thì chết ngay, hoặc đi không trúng tim luồng thì
cũng vẫn có thể là thập tù nhất sinh. Những quãng hiểm trở của Sông Đà
mang diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một của con người: hung hãn,
nham hiểm và xảo quyệt.
Sông Đà dữ quả là không sai với tiếng đồn. Cát, đá, nước, gió, sóng hùa
nhạu bẫy người vào chỗ chết. Nguyễn Tuân đã dùng ngòi bút trăm màu để
miêu tả hàng loạt những hình ảnh khác nhau mà luôn luôn đắc sách, vừa có
chất trí tuệ vừa có tính tạo hình, vượt xa những thủ pháp mà người ta quen
gọi là nhân hoá, đi vào bản chất sâu xa nhất, độc đáo nhất của sự vật, tạo
thành những trang viết biến hoá khôn lường. Do thế mà cái dữ dội của Sông
Đà trở nên môi trường anh hùng ca vô cùng độc đáo.
Sông Đà dữ dội nhưng Sông Đà cũng rất trữ tình. Đó là ở những đoạn
xuôi chèo êm ả. Nhìn từ máy bay xuống, Sông Đà tuôn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban
hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nưdng xuân.
Nước Sông Đà màu sắc thay đổi theo mùa; Mùa xuân dòng xanh ngọc
bích,... mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ. Trên sông, những chiếc thuyền
then đuôi én xuôi dòng, tạo cho sông vẻ thơ mộng riêng của nó. Là sông mà
nó nói với con người bao điều. Nguyễn Tuân nhìn Sông Đà như nhìn một cố
nhân, một người thân cũ lâu ngày gặp lại. Nhà văn say mê ngắm màu nắng
giòn tan vàng như hổ phách trên sông mà chợt liên tưỏng tới''màu nắng tháng
ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dưdng Châu” trong bài thơ Tại lầu
Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng của thi hào Lý Bạch đời
Đường bên Trung Quốc.
Bên trên là thái độ đối với Sông Đà, còn đây là tình cảm của tác giả đối
với con người, sản phẩm của dòng sông ấy. ông lái đò là sản phẩm của
207