Page 400 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 400
nhưng quen hơi, không có nó thì buồn. Đêm đêm khi thì nhìn nó ngủ, khi thì thơm
mớ tóc xù của nó, trái tim tối đã từng bị đau khổ làm chai lì, được hồi phục trỏ lại
mềm dịu hơn...”. Tình cảm ấy không còn ở ranh giới của sự cảm thông chia xẻ
giữa nhũmg người xa lạ mà đích thực là tình cảm của những người gần hoặc cùng
huyết thống dành cho nhau.
Đáp lại tình cảm nồng thắm ấy của Xô-cò-lốp, Va-ni-a yêu anh bằng tất cả
tình cảm của một đứa con. Kể từ lúc “nhận ra” bô Xò-cô-lốp, Va-ni-a không muốn
rời cha nửa bước. Công việc của Xố-cô-lốp luôn phải xa nhà. Một mình anh thì ăn
uống thế nào cũng được “một mẩu bánh mì, rnột củ hành với tí muối, thế là đủ no
cho một ngày của đời lính”. Nhưng một khi Va-ni-a đi theo thì chuyện ăn uống trỏ
nên rắc rối, “khi thì phải mua sữa cho nó, khi thì phải luộc quả trứng, không có thức
ăn nóng cho nó là không xong” . Đây cũng chính là chi tiết biểu lộ tình cảm của Xò-
cố-lốp với chú bé. Anh không muốn nó phải chịu đựng nỗi vất vả của người lớn.
Giải pháp của anh là để nó ở nhà, nhưng xem ra điều đó lại gây phiền toái không
nhỏ. Chỉ vì cậu bé quá nhớ anh nên không chịu ngồi yên một chỗ, “nó cứ khóc
suốt từ sáng cho đến tối, chiều tối trốn ra kho thóc tìm tòi. Thường đợi tôi ỏ đó đến
khuya”. Một phần Va-ni-a nhớ bố, phần khác thì ắt hẳn tận thẳm sâu tâm hồn thơ
bé của nó, nó không muốn để mất bố thêm lần nữa.
Dẫu không trực tiếp miêu tả, nhưng những lúc vắng Xô-cô-lốp, trong lòng Va-
ni-a hẳn dấy lên nhiều nỗi lo sợ. Thế đấy, khi chiến tranh đã thực sự qua đi thì đâu
vì thế mà mọi nỗi bất hạnh chấm dứt ngay lập tức. Tuy đã tìm lại được hạnh phúc,
nhưng tâm hồn bé bỏng của Va-ni-a vẫn luôn thắt thỏm sự mất mát, xa lìa. Điều
đó khiến nó “lúc thì cứ luôn ríu rít như chim sẻ, có lúc không hiểu sao lại tự nhiên
im lặng” . Những lúc ấy, tâm trí nó lại hướng về khoảng thời gian trưốc chiến tranh.
Nó hỏi; “Bố ơi, cái áo bành tỏ da của bố đâu rồi?”, rồi lại hỏi: “Thế tại sao bó lại
tìm con lâu thế?” Những câu hói này không nhằm mục đích thẩm định Xô-cô-lốp có
thực là bố của mình hay không, mà cốt diễn tả nỗi kinh hoàng trong ngần ấy tháng
nám mất bố của cậu bé. Điều đó mang lại nỗi xúc động lớn iao cho người đọc.
Hành trình người bố tìm con mang tính ẩn dụ, nhằm diễn tả nỗi gian nan và cái giá
phải trả cho sự đoàn tụ; “Bố tìm con ỏ bên Đức, bên Ba Lan, và đi bộ, đi xe tìm
khắp cả Bê-lô-ru-xi-a, mà con ihì lại ỏ U-riu-pin-xcơ’.
Các đối thoại này được thực hiện theo cách nói của trẻ con, đơn giản, liệt kê,
kể lể,... nhưng do bao quát một không gian rộng lớn (từ Đức đến Ba Lan đến Bê-
lô-ru-xi-a), kể cả các phương tiện (đi bộ, đi xe) và gợi lên một khoảng thời gian rất
lâu cho thấy sự kiên trì, gian nan trên hành trình tìm kiếm. Kiểu đối thoại này thoạt
nghe chỉ là cách nói dỗ trẻ con, những ngẫm kĩ nó vẫn hàm chứa sự thật (những
con người lạc nhau, mất nhau, tìm nhau,...) trong đó, một sự thật nghiệt ngã của
số phận con người trong chiến tranh.
399