Page 310 - Ngữ Văn Ôn Thi Tốt Nghiệp
P. 310

vẫn diễn biến một cách có lôgic. Lần thứ hai Việt tỉnh dậy, nghe tiếng ếch nhái kêu
    dậy lên, Việt tự nhiên  nhớ về  những  đêm đi soi ếch,  nhớ “Khi  đổ ếch  vào thùng,
    chú Năm thế nào cũng sang”. Thế là hình ảnh chú Năm hiện lên với những câu hò
    và cuốn sổ gia đình cùng ý nghĩa  của  nó.  Lần thứ ba Việt tỉnh dậy, tiếng cu  rừng
    nhắc Việt nhớ tới chiếc ná thun,  rồi chiếc ná thun  nhắc tới  hành trang trong chiếc
    ba  lô  ngày  nhập  ngũ,  ngày  nhập  ngũ  là  ngày  má  Việt  vừa  mất,  thế  là  nỗi  nhớ
    “chuyển vùng” sang hình ảnh của người má thân yêu. Việt tỉnh dậy lần thứ tư trong
    tiếng súng thôi thúc.  Sự thôi thúc ấy khiến Việt liên  hệ tới ý  nghĩ thôi thúc ngày đi
    bộ đội, liên hệ chuyện chị em giành nhau nhập ngũ trước, sau đó là chuyện mang
    bàn thờ má đi gửí bên nhà chú...  Nhìn chung,  nhà vàn nắm rất chắc quy luật diễn
    biến tâm  lí con  người,  ông  đả  khéo léo tạo cho tác  phẩm  một  hình thức kết cấu
    độc đáo tương đồng với “kết cấu” của những giấc mơ chập chờn, từ đó cứ mở rộng
    dần đối tượng được miêu tả và đi mỗi lúc một sâu vào đời sống tâm hồn của nhân
    vật.

        Trong khi làm sáng tỏ tâm lí nhân vật, nhà văn đã sử dụng một ngôn ngữ trần
    thuật đặc biệt phù  hợp. Đấy là ngôn ngữ của chính nhân vật nói về mình và kể về
    người khác,  mặc dù bề ngoài có vẻ là ngôn ngữ khách quan của người trần thuật.
    Điều  đó  thể  hiện  ngay  ở  cách  xưhg  hô  rất  đỗi thân  thương,  gắn  bó:  “Việt”  (chứ
    không phải là “anh” hay “chú bé”), “chị Chiến” (chứ không phải là “cô“, “chị”), “chú
    Năm” (chứ không  phải là “ông  Năm"),  “má” (chứ không  phải là “má Việt”)... Điều
    đó cũng thể hiện ỏ màu sắc địa phương của lời trần thuật (chưa kể đến lời nóỉ thực
    thụ  của  nhân  vật):  “Chú  ít  nói,  nhưng  đã  nhậu  vào  ba  hột  là  chú  nói tới”,  ‘Thím
    Năm vừa  khóc  vừa  kể thôi  là  kể”,  “Hai  bên  giáp  mặt,  ba  cười  hề  hề,  nhưng  má
    chẳng thèm dòm,  hai mắt hứ một cái “cóc”,  rồi đi thẳng” ...  Thật khó  kể hết được
    những ví dụ sinh động như thế.  Nhiều người từng biểu dương Nguyễn Thi rất thạo
    ngôn  ngữ Nam  Bộ.  cần  phải thấy  rằng  cách  sử dụng  ngôn  ngữ của  ông  ở  đây
    trước hết có tác dụng làm nổi bật tâm lí những con người sống ỏ vùng đất ấy, sau
    nữa mới gọi dậy không khí của một vùng, của một thời...
        Những đứa  con  trong gia đĩnh thể  hiện  khá  rõ tài  năng  của  Nguyễn  Thi trên
    nhiều mặt: khả năng khái quát cao, khả năng dựng cảnh, dựng người và mô tả tâm
    lí sâu sắc, khả năng vận dụng ngôn ngữ Nam Bộ đầy linh hoạt, biến hoá và cả chất
    triết lí rất riêng, toát lên từ chính hiện thực chứ không phải từ những lời trữ tình ngoại
    đề của tác giả. Tất nhiên,  những  phương diện tài năng ấy không  biểu  lộ riêng rẽ.
    Chúng  hoà  lẫn  vào  nhau  hết  sức tự nhiên  đưa  đến  sức thuyết  phục  lớn  cho tác
    phẩm, làm cho độc giả khi đọc tác phẩm không còn thấy đó là văn mà chỉ thấy đó
    là cuộc đời.
                                                          PHAN HUY DŨNG




                                                                           309
   305   306   307   308   309   310   311   312   313   314   315