Page 61 - Nghề Thủ Công Truyền Thống Việt Nam
P. 61
nổi tiếng gần xa với lụa Vân, lụa Bạch, các loại sa màu,
dưới triều Gia Long. Minh Mạng đã điêu đứng khổ sở vì
mỗi năm phải nộp cho triều đình 600 tấm sa mỗi tấm dài
28 thước. Thậm tệ hơn, cả làng La Khê tài hoa như thế đã
bị triều đình Thiệu Trị biên chế thành một cơ sở dệt của
nhà nước với cái tên “chức tạo cục”. Thế là từ đó, làng La
Khê một cổ mấy ừòng: Ngoài lệ nộp 600 tấm sa hàng năm
người thợ còn nai lưng trong “chức tạo cục” để cung phụng
cho triều đình. Đã có những lúc họ không chịu đựng nổi:
“Nhà nước đòi sơn thì họ chặt cây sơn đi, nhà nước đòi vải
lụa thì dân phá khung dệt, đòi gỗ thì dân quăng búa rìu, đòi
tôm cá thì dân xé lưới”(Phan Huy Chú - Lịch triều hiến
chương ỉoại chỉ - Quốc dụng chỉ) Nhưng rốt cuộc người
thợ vẫn không bỏ nghề, làng nghề vẫn “trơ gan cùng tuế
nguyệt” cho đến hôm nay. Làng nghề thủ công đã và sẽ tồn
tại mãi với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc bởi
người thợ hành nghề không chỉ vì mục đích kinh tế mà còn
do nhiều yếu tố khác thiêng liêng mật thiết, nó trở thành
một chất kết dính bền vững trong các làng nghề. Người thợ
thủ công Việt Nam đồng thời cũng là người nông dân. Họ
hành nghề theo kiểu “gia đình cồng nghệ”. Mỗi gia đình là
một công xưởng, họ có quan hệ bà con ruột thịt với nhau
trong một nhà dưới sự điều hành của người gia trưởng chứ
không có quan hệ chủ thợ như trong các công trường thủ
công hay ở các nước công nghiệp phát triển khác. Họ gắn
bó với nhau trong từng làng. Đấy là nơi chôn rau cắt rốn, là
nơi họ sinh ra và lớn lên, tiếp nối từ đời nọ sang đời kia. Ở
65