Page 254 - Lý Thường Kiệt
P. 254
LÝ THƯỜNG KIỆT
1094 Nguyễn Lợi Dụng Kết hiếu (VSL)
1098 Nguyễn Văn Tín Xin kinh Tam Tạng (VSL)
1102 Đỗ Anh Hậu Kết hiếu (VSL)
1106 Ngụy Văn Tướng Kết hiếu (VSL) Xin mua sách
1110 Đào Ngạn Kết hiếu (VSL)
1114 Đào Tín Hậu Kết hiếu Cống voi
Nguyễn Bá Độ*'’’ Cống 1 tê trắng, 1 tê đen và 3
1118 Kết hiếu
Lý Bảo Thần voi
Đinh Khánh An
1122 Kết hiếu Cống voi
Viên Sĩ Minh
Nghiêm Thường Tới Quế Châu phải trở về, vì
1126 Kết hiếu
Từ Diên Kim đánh Tống
Còn như việc Tống phong cho Lý Nhân Tông, thì thứ tự như sau:
1073 Trao chức Kiểm hiệu thái úy, Tĩnh hải quân tiết độ sứ, An Nam đô hộ phong
tước Giao Chi quận vương.
1085 Gia phong Đồng trung thư môn hạ bình chương sự (vì Triết Tông lên ngôi).
1087 Tiến phong Nam Bình vương.
1101 Gia phong Khai phủ nghị đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư (vì Huy Tông lên
ngôi).
1119 Gia phong Thủ tư không (vì Khâm Tông lên ngôi).
1132 Tặng Thị trung, truy phong Nam Việt vương (Lý Nhân Tông mất năm 1127,
nhưng vì Tống bị Kim đánh chạy, đến năm 1132 mới đóng đô yên ổn ở Hàng Châu).
Cách phong cho vua Lý đến Lý Anh Tông vẫn theo lệ cũ, nghĩa là bắt đầu bằng chức
Thái úy, Tĩnh hải quân tiết độ sứ, An Nam đô hộ, và phong Giao Chỉ quận vương.
Nhưng trong đời Lý Anh Tông, nhân có sứ ta là Doãn Tử Tư và Lý Bang Chính tới cống
(1073), vua Tống Hiếu Tông phong cho vua Lý tước A n N a m qu ốc v ư ơ n g (1074). Từ đó về
sau, Tống nhận ta là một nước (QUÔC), và các vua Lý Cao Tông, Huệ Tông, các vua
Trần Thái Tông, Thánh Tông đều được phong tước An Nam quốc vương, lập tức sau khi
mới lên ngôi. Sách TT chép Tống phong Lý Anh Tông làm An Nam quốc vương và đổi
Giao Chỉ ra An Nam quốc, vào năm Giáp Thân 1164. Chắc là sai. Không nhũng VSL, TS
488 và TS 34 chép vào năm Giáp Ngọ 1074, mà câu thơ của Lý Bang Chính<‘^L mà LNĐĐ
còn ghi lại: T h ử kh ứ ưu th àn h tứ qu ốc dan h (V/3) chứng tỏ rằng sự đặt tên nước An Nam là
vào năm Bang Chính đi sứ, nghĩa là năm 1074.
Theo TT. Còn VSL chép tên Khánh. Chữ KHÁNH viết thảo và chữ ĐỘ gần tự dạng.
Trong chương V, đoạn 3, trương 112, dòng 4 kể từ dưới, có lầm ra năm 1164. Vậy cải
chính, và phải đọc 1174.
264