Page 250 - Lý Thường Kiệt
P. 250

LÝ THƯỜNG KIỆT


              Tuy rằng sau khi Thái hoàng Thái hậu Tống mất (năm Quý Hợi 1093),
          vua Tống cầm quyền nhu nhược, đảng phái tân cựu lại khuynh đảo nhau
          rất kịch liệt, quân Hạ đe dọa Tống ở miền bắc, mà vua Lý cũng không biết
          nhân cơ hội, cố đòi lại đất còn mất. Trái lại, năm Kỷ Tỵ 1089, quân Tống có
          khi kéo vào châu Thạch Tê (có lẽ Thạch Lâm ở Cao Bằng ngày nay), mà vua
          Lý cũng không chống lại kịch liệt (VSL).
              Từ đó về sau, sự bang giao Lý Tống trở lại bình thường, không có tính
          cách phản đối, yêu sách đòi hỏi gì nữa*^^L Tuy rằng VSL có chép vào năm 1106
          rằng: "Tháng 11, vua Lý sắp có việc lôi thôi với Tống, sai đóng thuyền Vĩnh
          Long có hai bụng và những chiến hạm", nhưng sau, không thấy có chuyện gì.
          Trái lại, VSL chép liền sau: "Viên ngoại lang Ngụy Văn Tướng đi sứ Tống".
              Tống Lý lại ữở nên hòa hảo. Triều Lý Nhân Tông còn dài. Trong khi ấy
          nước Tống bị nước Kim xâm lấn, bắt vua và phá kinh đô. Kẻ sống sót phải
          xuống miền nam sông Dương Tử mà lập nên Nam Tống. Thế mà các vua Lý
          không hề biết lợi dụng thời cơ, để mở rộng thêm vùng Bắc Việt.
              Xem thế mới biết rằng, tất cả chính sách lấn dần vào Hữu Giang, trong
          triều Lý, chi nhờ Lý Thường Kiệt mới có thành công.




          Chú thích:
             ' Nguyên văn:  Tài quá  T rư ờ n g G iang,  tứ c  tiến   tỉn h   địa. Nghĩa là vừa qua sông dài (hay là
          vừa qua sông Trường), lập tức đạp lên đất nhà vua (Tống).  Hai chữ Trường Giang có thể
          hiểu là danh từ chung hay là danh từ riêng. Nếu hiểu là danh từ chung, thì sô n g   d ài ấy là
          sông nào. Theo lời  chấp  nhận  của sứ ta, thì  đất  Lạng Châu,  đã  bị  Quách  Quỹ chiếm,  là
          thuộc Tống. Vậy sông dài kia là sông cầu ngày nay. Nếu hiểu là danh từ riêng thì có thể là
          sông T hư ơn g, mà tên xưa là sông X ư ơ n g . Âm x ư ơ n g và trư ờ n g đều đọc như nhau, là tchang.
          Nhưng đây chắc nó chỉ có nghĩa là sông dài mà thôi. Trong bia cổ LX và STDL đều chép:
          Lý Thường Kiệt bại Tống trên N h ư  N g u y ệ t  trư ờ n g  gia n g . Hai chữ trường giang ở đây cũng
          như ở trong biểu của Triệu Tiết, chỉ là một cách nói cho trịnh trọng và bóng bẩy. 2.
             ^ Viên coi Khâm Châu là Lưu Sơ đã dỗ được Vi Thú An coi châu Tô Mậu. Chúa  trại
          Vĩnh Bình Dương Nguyên Khanh đã dỗ được những thủ lĩnh Quảng Nguyên. Các viên
          ấy đều được thưởng bảy tư. (TB 281/8a). 2.
             ^ Những châu mà Lý xin là Quảng Nguyên, Tư Lang, Môn, Quang Lang và Tô Mậu.
          Trong các văn kiện thường chỉ kể một vài tên để trỏ toàn thể. Vả bấy giờ, quân ta đã lấy


                                            260
   245   246   247   248   249   250   251   252   253   254   255