Page 252 - Lý Thường Kiệt
P. 252

LỶ THƯỜNG KIỆT


            * Sách TT chép: "Bốn động: Lôi Hỏa, Bình, Yên, Bà, và một châu Tư Lang". Còn VSL
         chép ba động: Lôi Hỏa, Bình, Bà và châu Tư Lang. Sách TS 495 chép; "Lấy bốn động: Lôi
         Hỏa, Tần, Bà và châu Tư Lang". Sách SK so sánh TT và TS và kết luận: "Có nơi đổi tên
         Y ên ra T ần. Đây tôi lấy Tần, vì trong chiếu vua Tống có chép tên ấy. 7.
            ’ TT chép; "Tháng 9, người Vật Dương loạn, đánh dẹp yên". VSL chép: "Nùng Trí Cao
         chiếm động Vật Dương thuộc châu An Đức ở Tống". TS 495 chép; "Nùng Trí Cao đánh úp
         châu An Đức, tiếm xưng Nam Thiên Quốc, cái nguyên Cảnh Thụy. Năm Hoàng Hữu đầu
         (1049), vào cướp Ung Châu. Năm sau (1050), Giao Chi đưa quân tới đánh, không được". 7.
            “ Các sử gia ta ngày trước không ai hiểu rõ việc trả đất năm Giáp Tý 1084, cho nên
         thường  chép  lúng  túng.  Ngô  Thì  Sĩ nhận  thấy  sự  mập  mờ  ấy,  có  bàn  trong  sách  KS,
         nhưng chính ông cũng không hiểu nốt. ông nói; "Theo C ư ơ n g   m ụ c  tụ c  biên và  G iao  C h i d i
         biên thì "quân Tống tới xâm, lấy các đất Quảng Nguyên, Tư Lang, Tô Mậu, Quang Lang,
         rồi đổi Quảng Nguyên ra Thuận Châu. Đến khi Lý trả dân đã bắt, Tống bèn lấy Thuận
         Châu trả lại. về sau định giới, lại trả lại sáu huyện ba động". So với cự u   s ử  (tức là TT)  thì
         cũng như nhau, nhưng đều không chép rõ huyện nào, động nào. Nay xét, thấy các sách
         đều không nói trả các châu huyện Tư Lang, Quang Lang. Thế mà các đất này từ đời Lý
         Thần Tông về  sau  sẽ  là  đất  Lý.  Hoặc giả,  sau khi  đổi  Quảng Nguyên ra  Thuận  Châu,
         Tống lại hợp đất Tư Lang và  Quang Lang mà đổi  thành huyện và động.  Sáu  h u yện ,  ba
         đ ộ n g kia hoặc là đất ấy chăng? Lúc đầu chi trả Thuận Châu; về sau định giới, mới trả hết
         cả.  Như thế  mới  còn có lý.  Nhược bằng  sáu  huyện là  đất  Bảo Lạc, ba  động là  đất Túc
         Tang (TT và SK đều nói ba động, và hình như hiểu Túc Tang là tên một động mà thôi),
         thì người Tống chưa hề xâm đất ấy, cớ sao lại trả cho ta?". 8.
            " Sách củ của nước ta và nước Tàu không có chấm câu.  Khi nào chép tên nhiều đất
         liền nhau như ở đây, rất khó lòng nhận tên đất cho đúng, vì có tên chi một chữ, có tên
         gồm hai, ba chữ.  Nhưng có một vài trường hợp,  ta có thể nhận  ra;  nhất là  khi trong số
         đất chép tên,  có một vài đất mà mình quen  tên  trước, và khi nào biết trước số tên  đất
         chép đó. Hai trường hợp ấy gặp ở đây. Vậy tôi đã theo nguyên tắc sau này để chấm câu:
         phải chấm câu làm sao cho nó đủ 18 tên, mà giữ trọn được những tên đã biết rồi, như ôn
         Nhuận, Vật Ác, Vật Dương, Tần, Nhậm, cống, hay là những tên có thể đoán được, như
         Hạ Lôi, Thượng Điện.  Ngoài những tên ấy ra, thì ở đây phải  nhận rằng mỗi tên chỉ có
         một chữ, mới đủ 18 tên. Đó là trường hợp đặc biệt. 8.
             Tôi  cũng  theo  nguyên  tắc  vừa  nói  trong  chú  thích  11,  mà  định  những  tên  này.
         Những tên ải thì chắc như thế là đúng; vì có 8 ải mà có 16 chữ, mỗi tên chắc gồm hai chữ.
         Vả chăng nếu chấm câu như vậy, thì những tên sẽ có chữ Canh, Khâu, Khiếu đứng đầu,
         đều là những danh từ chỉ đèo, núi.
            Tên  sáu  huyện  và  hai  động cũng chắc  là  đúng  như  trên.  Vì  tên  Bảo  Lạc  nay  còn.
         Huyện Bảo Lạc xưa là vùng phía bắc tinh Hà Giang bây giờ. Nùng Văn Vân nổi loạn ờ  đó
         (1833). Vua Minh Mạng bèn xóa tên Bảo Lạc, mà chia đất ra làm hai huyện Để Định và
         Vĩnh Điện. Huyện lỵ đời xưa đóng ở phố Vân Trung. Cho nên phố ấy cũng có tên Bảo
         Lạc. Nay, ở trong bản đồ sở họa đồ Đông Dương còn đề tên Bảo Lạc vào chỗ ấy.


                                           262
   247   248   249   250   251   252   253   254   255   256   257