Page 251 - Lý Thường Kiệt
P. 251
KHÁNG TỐNG-ĐÒI OẤT
lại Quang Lang, và có lẽ cũng đã chiếm lại Tô Mậu và Môn. Nhưng vua Lý vẫn xin kéo
lại các châu ấy, cốt ý để Tống cho Quảng Nguyên. 3.
‘‘ Sau khi Triết Tông lên ngôi, triều Tống, sai các sử quan Phạm Tổ Vũ, Triệu Ngạn
Nhược, Hoàng Đình Kiên soạn Thần Tông thực lục. Năm Tân Mùi 1091, soạn xong. Bấy
giờ đảng phái chống Vương An Thạch cầm quyền, cho nên thực lục Thần Tông phỉ báng
An Thạch. Đến năm Quý Dậu 1093, Triết Tông thân chính, phái tân pháp trở lại đắc
dụng, cho nên sai rể An Thạch, là Thái Biện, soạn lại Thần Tông thực lục. Tháng Chạp
năm Giáp Tuất (đầu năm 1095), Biện soạn xong. Các sử thần soạn bản thực lục cũ đều bị
an trí. Vì vậy, nên có hai bản Thần Tông thực lục, cự u k ý và tân k ỷ. 3.
® TB (411/5b) lại chép rằng năm Mậu Thìn, sau khi trả Thuận Châu cho ta, Linh Sùng
Khái chạy vào đất Tống. Được Tống cho coi động Hoài Hóa. Tống thưởng công liệt vào
hàng sứ và đổi động Hoài Hóa ra châu. 4.
* Một dư luận quan trọng khác là lời Tô T hứ c (Tô Đông Pha) tâu can vua Tống Triết
Tông đừng dùng Thẩm Khi. Nguyên Khi và Lưu Dị bị biếm và có nghị định về sau
không được lục dụng nữa. Nhưng Di được khôi phục chức vụ ít nhiều. Khi Triết Tông
lên ngôi, định xá tội cho Khỉ, Tô Thức dâng biểu nói:
"Tôi thấy từ đời Hy Ninh, Vương An Thạch được dùng, bắt đầu tìm lập biên công,
sinh hiềm thù với các man di. Vương Thiều dâng việc Hi Hà. Chương Thuần xui việc
Ngũ Khê (vùng Mai Châu, Phúc Kiến). Hùng Bản gây việc Lô Châu (vùng Tứ Xuyên).
Thẩm Khỉ và Lưu Di thấy vậy, cũng bắt chước, kết oán với Giao Chỉ. Binh dùng liền liền,
gây ra họa lớn. Quân chết đến mười vạn người. Cả nhà Tô Giàm bị hóa ra bùn tro. Đến
nay, Lưỡng Quảng bị đau thương chưa khỏi.
Tiên đế đầu muốn giết hai người ấy để tạ thiên hạ. Nhưng Vương An Thạch hết sức
che chở, cho nên chúng mới khỏi mất đầu. Thế là đã may lắm rồi. Đến năm Nguyên
Phong thứ 6 (24-3 năm Quý Hợi 1083) có Thánh chi định rằng Thẩm Khi đã phạm tội
nặng không được lục dụng nữa. Thiện hạ truyền tụng tin ấy, và cho là đáng. Đó là lời
Tiên đế không thể đổi được. Vậy không nên vì tức vị mà ân xá.
Thẩm Khl và Lưu Di đều có trách nhiệm đối với hàng mười vạn sinh linh. Tuy có bị
kiềm hãm suốt đời, cũng chưa trả đủ nợ. Gần đây, chỉ vì Lưu Di hơi được dùng, mà Khỉ
không biết tự lượng, dám ngỏ lời kêu và đổ lỗi cho Di, vin lẽ nọ kia, để mong được dùng.
Theo ý tôi, thì việc An Nam là do Khi gây mối, mà Di nối theo. Phép có thủ phạm,
tòng phạm. Di còn là kẻ siêng năng; học thuật còn có chỗ dùng được. Còn Khi thì nhân
cách ty tiện, làm việc xu nịnh và nham hiểm. Sự triều đình dùng Di đã làm mất tín đối
với công nghị, huống nay lại dùng Khỉ. Thật không có lẽ gì ân xá Khỉ" (TB 373/4a). 5.
'' Các tên sứ, thì các sách chép hơi khác nhau. T h ô n g g iá m cư ơ n g m ụ c (sách Tàu) chép
tên chánh sứ là Lệ tân phó sứ Lương Dụng Tân. Sách TB chép Lệ quảng phó sứ Lương
Dụng Luật. Sách ta chỉ có VSL chép tên sứ mà thôi, và chép Lương Dụng Luật như ở TB.
Còn tên phó sứ, thì TB 313/1 Ib chép Nguyễn Văn Bồi, và nói theo các sách TL chép
như vậy. Nhưng sau đó (TB 349/6a), có chép tên một phó sứ khác là Nguyễn Bồi đi sứ
Tống cùng Lê Văn Thịnh. 6 và 8.
261