Page 134 - Lý Thường Kiệt
P. 134
LÝ THƯỜNG KIỆT
lính, và theo tục bấy giờ, phải khắc trên trán ba chữ Thiên tử binh. Còn đàn
bà, con gái thì phải khắc vào cánh tay 2 chữ Quan khách nghĩa là khách của
nhà nước. (TS 488).
Các tù ấy hình như cũng không bị giam cầm nghiêm ngặt. Trong bọn tù
có Triệu Tú, là người thuộc đội quân Trương Thủ Tiết, bị Thường Kiệt bắt ở
ải Côn Lôn, và đã bày cho ta dùng hỏa công ở Ung Châu. Tháng 10 năm
Bính Thìn (1076), bọn Triệu Tú, tất cả 30 người, từ trại Nghệ An trốn, cưỡi
thuyền vượt bể để về bắc; nhưng gặp gió, bị giạt vào Lê động ở đảo Hải
Nam ngày nay. (TB 276/3b).
Thường Kiệt lại dò biết Tống dụ Chiêm Thành và Chân Lạp hợp lực để
đánh nam thùy ta. Tháng 8 năm ấy (Bính Thìn 1076), Thường Kiệt đem
quân vào tuần du ở các châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh mà Chiêm Thành
mới nhường cho ta bảy năm trước, ông vẽ địa đồ các châu ấy để tiện việc
phòng thủ. Muốn củng cố địa vị của ta ở những châu mới ấy, ông chiêu dân
tới ở, và tổ chức cai trị lại. Đổi tên Địa Lý ra Lâm Bình, và Ma Linh ra Minh
Linh. (TT).
về việc này, sử ta (TT) chép rằng: "Vua sai Lý Thường Kiệt đánh Chiêm
Thành^^^^, nhưng đánh không thắng, bèn vẽ bản đồ..." Nhưng chắc rằng
mục đính cuộc xuất quân này không phải là để xâm chiếm Chiêm Thành.
Bấy giờ quân Tống đã tụ tập nhiều ở Ung Châu. Thường Kiệt chỉ đi tuần tra
kiểm soát sự phòng thủ, để ngừa sự bất trắc ở miền nam thôi. Sự họa bản đồ
và di dân tới ở các châu mới kia đủ tỏ ý định ấy.
Tâm trí Thường Kiệt bấy giờ phải chuyên chú về sự Tống đương sửa
soạn uy hiếp miền bắc.
Sau trận Lý tấn công, vùng Tả Giang trên đất Tống bị tàn phá. Muốn
ngăn Tống kéo quân xuống, quân ta đã dùng phép thanh dã. Các kho tàng,
tiền bạc, lương thực đều bị đốt cháy. Quân Lý, nhất là thổ binh, lại mang cả
nhà đi theo, cho nên đã cướp của cải, bắt đàn bà, con gái Tống rất nhiều
(theo lời tâu Trương Phương Bình, TB 276/18b). Dân gian chạy tán loạn vào
rừng núi. Nhiều khê động quay theo Lý. Người Tống dẫu muốn phục thù,
142