Page 133 - Lý Thường Kiệt
P. 133
BẠI CHIÊM-PHÁ TỐNG
Thường Kiệt sai phá thành Ung, lấy đá lấp sông để ngăn quân cứu viện.
Lấy xong Ung Châu, Thường Kiệt kéo quân lên phía bắc, ý muốn lấy
Tân Châu. Viên coi Tân Châu, là cổ cắng Lặc, nghe quân ta kéo gần đến
thành, bỏ thành chạy chốn. (TB 280/2b).
9. Lui quân và đề phòng
Bấy giờ đại quân Tống từ bắc đã kéo xuống. Mà quân Lý đánh Ung
trong hơn một tháng, coi chừng cũng mỏi mệt. Vả mục đích chính của ta là
phá các cứ điểm của Tống có thể dùng để đánh ta. Nay các thành Ung,
Khâm, Liêm đã bị phá. Các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Thiên Long, c ổ Vạn
đã bị đốt. Như thế, ta xuất quân cũng thắng lợi rồi.
Vả chăng nếu quân Tống tiến gấp, chúng có thể qua vùng khê động
vào thẳng các châu Quảng Nguyên, Môn, Lạng và Tô Mậu, trong khi quân
ta bị kẹt ở vùng Ung. Vì cớ ấy, sự rút quân ta về là cần kíp. (VII/10).
Thường Kiệt hạ lệnh lui quân. Tháng 3 năm Bính Thìn (1076), quân ta ra
khỏi đất Tống. Tư Mã Quang (TTh 13) nói ngày 21-1 Ung Châu mất, ngày
23-1 Lý rút quân về, không hợp với sách TB. Nhưng không sách nào khác
nói rõ ngày Lý rút khỏi Ung.
Biết Tống sắp sửa kéo quân tới trả thù, Lý Thường Kiệt gia sức đề
phòng trước. "Ngày ngày ông sai tụ tập binh lính để tập trận; nhóm họp voi
ngựa, tập duyệt phép chạy, phép xung phong" (theo lời chiếu cho Quách
Quỳ 20-7 năm B. Th; TB 277/4b).
Một mặt khác, Lý hết sức do thám hành động của quân Tống. Lúc hạ
Ung Châu, có bắt được 200 nhà sư. Ta thu lấy bằng sắc. Rồi sai thám tử cạo
đầu, mặc áo cà sa, mang bằng sắc ấy, giả làm sư Tống, vào đất Tống dò xét
(TB 277/12a). Ta lại dùng dân thuyền chài ở ven bể, cho lẫn vào đất Tống để
thám thính (TB 276/6b).
Dân và quân Tống bị ta bắt đem về, được đưa tới ở Nghệ An, Thanh
Hóa, xa biên thùy Tống, kẻo khi quân Tống vào, các tù nhân ấy có thể trốn
theo quân Tống. Hạng trên 20 tuổi, phải khắc trên trán ba chữ Đầu nam triều
nghĩa là hàng Nam triều. Hạng dưới 20 tuổi và trên 15 tuổi, phải sung làm
141