Page 131 - Lý Thường Kiệt
P. 131

BẠI CHIÊM-PHÁ TỐNG


        7. Diệt viện bính. Trận Côn Lôn quan
         Lúc thành Ung sắp bị vây, Giàm đã sai sứ về Quế Châu, ở cách về phía bắc
     chừng 400 km, để cầu viện.  Quan coi Quế Châu là Lưu Di sai viên đô giám
     Trương Thủ Tiết đem quân đi cứu. Nhưng Thủ Tiết nghe báo rằng ta đông gấp
     mười, nên dùng dằng không chịu đi liền. Trái lại Thủ Tiết đem binh đi vòng
     theo đường Quý Châu để tới Tân Châu. Y trú binh lại ở trại Khang Hòa để chờ
     xem sức Giàm chống lại với ta thắng bại thế nào đã. Không thấy viện bứih đến,
     mà vòng vây đã thắt chặt, Giàm phải cho người mang lạp thư, nghĩa là thư viết
     vào giấy rồi vò vào trong sáp mà ngậm trong miệng, lọt ra vòng vây để cấp cáo
     với đề điểm hình ngục Tống cầu. Lúc nhận được thư, cầu khóc và giục Thủ
     Tiết tiến binh. Thủ Tiết hốt hoảng không biết làm thế nào; bèn đem quân đóng

     ở núi Hỏa Giáp (TS chép Đại Giáp), rồi kéo tới giữ ải Côn Lôn giữa đường Ung -
     Tân, cách Ung chừng 40 km. (TB 272/la và TS 446).
        Thường Kiệt được tin, đưa quân đến đón đánh. Thình lình quân ta tiến
     tới, quân Tống chưa đánh đã chạy. Thủ Tiết nhu nhược không điều khiển
     nổi binh sĩ, liền bị thua. Nhiều tên quân hàng theo ta (TB 277/17a). Thủ Tiết
     bị giếb’^ Ấy vào ngày 4 tháng Giêng năm Bính Thìn (T. Zu, DL 11-2-1076; TB
     272/lb). Các viên đề cử Tả Giang ô n  Nguyên Dụ, đô giám Hồ Nam Trương
     Biện, tuần kiểm các châu Ung và Tân Hứa Dự, tuần kiểm các châu Liễu, Tân,
     Tượng Vương Trấn đều bị chết. (TB 273/4b).

         8. Phá Ung Châu
         Thành Ung Châu bị vây từ mồng 10 tháng Chạp năm trước, đến bấy giờ
     gần  một  tháng.  Nhưng  thành  cao  và  chắc.  Giàm  lại  giỏi  điều  khiển binh
     lính. Quân Lý không sao vào lọt. Muốn dòm vào trong thành, ta dùng vân
     thê, là một thứ thang bắc chuyền nối nhau rất cao, rồi sai các tù binh trèo lên
     mà trông vào thành. Bốn bề dựng thang. Thang vừa dựng, Giàm sai bắn hỏa

     tiễn, tức là một thứ pháo thăng thiên, đốt cháy thang. (TS 446 và TB 272/7b).
         Cầm cự nhau mãi. Bên ta, quân và voi chết mất nhiều. Quân mất một
     vạn rưởi (TB 271/7b). Quân ta dùng tên độc bắn lên thành. Trên thành người
     và ngựa chết rất nhiều.


                                       139
   126   127   128   129   130   131   132   133   134   135   136