Page 126 - Lý Thường Kiệt
P. 126

LÝ THƯỜNG KIỆT

           Kiệt đàng xa, thì nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam;  rồi cùng
           nhau bày phương án bái phục bên đường. Nhờ đó mà uy thanh quân ta lan
           khắp" (NBS). Bởi vậy, tiến quân vào nội địa càng thêm dễ dàng.
               Trong lúc ấy, đạo quân Tông Đản kéo tràn qua các trại ở phía tây. Trong
           tháng 11, Vĩnh Bình, Thái Bình, Thiên Long, cổ Vạn đều mất (TB 271/7a). Ngày

           10 tháng Chạp, quân Tông Đản kéo  thẳng đến Ung Châu. Thành Ung bắt
           đầu bị vây. (Đ. Zu, DL 18-1-1075; TB 271/6b).
               Đại quân  ở Khâm và Liêm cũng tiến lên phía bắc.  Đạo đổ bộ ở Khâm
           Châu kéo thẳng lên Ung Châu, như ta sẽ thấy sau.  Còn đạo  đổ bộ ở Liêm
           Châu  tiến  sang phía  đông bắc, chiếm  châu  Bạch  (ĐĐSL 8).  Viên  tuần kiểm
           Thẩm Tông cổ  bị chết (TB 273/5a). Đạo quân ấy lại tiến lên Dung Châu. Viên
           đô tuần kiểm các châu Bạch, Dung là Phan Nhược Cốc và chỉ sứ châu Dung là
           Vương Đạt và Tào Quăng cũng đều tử trận (TB 274/3b). Hình như đạo quân
           ấy dừng ở khoảng này, để chặn quân từ phương đông tới cứu Ung Châu.

               5.  Phản động của Vương An Thạch
               Tin tức bây giờ chuyển chậm, vì dịch  trạm ở miền nam chưa tổ chức.
           Tuy Khâm Châu bị chiếm ngày 20 tháng 11, mà đến mồng 6 tháng sau, ty
           kinh lược Quảng Tây đóng ở Quế Châu mới được tin vào tâu: "Người Giao
           Chỉ họp quân thủy ở Triều  Dương (tức là Vĩnh An châu, hay là Hải Ninh
           bây  giờ.  Sách TB  271/5b  chép  Hồ  Dương,  sai  vì  tự  dạng),  sắp  sửa  đi  hai
           đường vào cướp". Đúng 1 tháng sau khi Khâm Châu bị mất, tin mới tới triều
           đình Tống (20 tháng Chạp, Đ. Vi, DL 28-1-1076; TB 270/5a).

               Ba ngày sau lại tiếp tin Liêm Châu cũng mất luôn.
               Các tướng ở địa phương bối rối đã đành; mà vua tôi Tống cũng rất đỗi
           hoang mang. Triều đình náo động.
               Báo tin mất Khâm Châu, ty kinh lược Quảng Nam tây lộ xin viện binh:
           20.000 quân, 3.000 ngựa và 1 tháng lương, tất cả lấy dọc đường từ kinh đến
            Quảng Tây. Lại xin chừng 10 sứ thần theo quân, xin thêm khí giới, đồ dùng,
           và xin điều động các dân khê động. Muốn điều khiển quân mau chóng, ty
           ấy cũng xin dời đến thành Tượng, gần phía bầc Ung Châu. (TB 271/12a).


                                              134
   121   122   123   124   125   126   127   128   129   130   131