Page 256 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 256
Trên đây là ba nhà soạn kịch tiêu biểu của Hy Lạp cổ đại,
trong đó, Ơripít là ngƣời có ảnh hƣởng lớn nhất đối với loại hình
văn học này của thế giới.
Bên cạnh bi kịch là chủ yếu, ở Hy Lạp cổ đại còn có hài
kịch.
Hài kịch tiếng Hy Lạp là Komoidia gồm hai chữ là Komos
nghĩa là du hành cuồng hoan và oide nghĩa là hát. Nhƣ vậy
komoidia nghĩa là vừa du hành vui nhộn vừa hát. Về sau, qua gia
công, đã xuất hiện một loại văn học mới là hài kịch.
Đề tài của hài kịch thƣờng là những chuyện lặt vặt trong
cuộc sống hằng ngày. Khi trình diễn thì cách dùng từ, đặt câu,
chia màn, bối cảnh... đều tự do hơn bi kịch nhiều. Vì vậy phụ nữ
và trẻ con không đƣợc xem hài kịch.
Nhà sáng tác hài kịch tiêu biểu của Hy Lạp cổ đại là
Arixtôphan (450 - 388 TCN). Ông đã sáng tác 44 vở hài kịch,
nay còn 11 vở, trong đó có các vở: Những kị sĩ, Đàn ong bò vẽ,
Đàn chim, Đàn nhái.
Vở kịch Đàn nhái viết về cuộc tranh cãi giữa hai nhà
viết kịch nổi tiếng là Etsin và Ơripít. Hai ông cãi nhau ồn
ào làm cho thần Rượu Điônixốt phải kêu lên rằng: "Các
nhà bi kịch cãi nhau như những người bán hàng, chẳng còn
ra thể thống gì cả". Thái độ của Arixtôphan là đứng về phía
Etsin bảo thủ và không đồng tình với phái cách tân Ơripít.
Ở La Mã các nhà thơ Anđrônicút, Nơviút, Enniút, Plantút,
Têrexiút, cũng là những nhà soạn bi kịch và hài kịch. Năm 240
TCN, ở La Mã bắt đầu diễn kịch. Anđrônicút là ngƣời đầu tiên
đƣợc giao nhiệm vụ chuẩn bị kịch bản cho các buổi biểu diễn ấy.
Từ đó, các nhà soạn kịch La Mã thƣờng dịch bi kịch và hài kịch
Hy Lạp, đồng thời phỏng theo kịch Hy Lạp để soạn những vở