Page 251 - Lịch Sử Văn Minh Thế Giới
P. 251

bản sao để truyền nhau lúc bấy giờ, nên tác phẩm vẫn đƣợc

               giữ lại.

                       Sau khi bị đi đày, bản thân ông, vợ con và bè bạn đều

               xin Ôctavianút ân xá cho ông nhƣng không đƣợc, vì vậy ông


               phải ở chỗ lƣu đày cho tới khi chết.

                       Trong thời kì này ông có viết hai tập thơ: Những bài

               thơ buồn và Thư về kinh. Tuy trong những tập thơ này cũng


               có những bài hay nhƣ: Đêm cuối cùng ở La Mã, Cảnh giông

               bão trên đường đi đày v.v... nhƣng nói chung trong thời kì

               này, cảnh lƣu đày đã làm tài năng của ông giảm sút nhiều.


               Mặc dù vậy Ôviđiút vẫn là nhà thơ có địa vị cao trong các

               thi nhân La Mã.

               c) Kịch


               Nghệ thuật kịch của Hy Lạp bắt nguồn từ các hình thức ca

        múa hóa trang trong các ngày lễ hội, nhất là lễ hội thần Rƣợu

        nho Điônixốt. Trong những ngày lễ hội này, ngƣời ta múa hát


        hóa trang, khoác da cừu, đeo mặt nạ diễn lại những sự tích trong

        thần thoại. Lúc đầu chỉ có những đội đồng ca hát những bài ca

        ngợi thần Rƣợu, sau thêm một diễn viên hát đế, nhƣ vậy bắt đầu

        có đối đáp. Cơ sở của kịch bắt đầu xuất hiện.


               Sau khi hình thức kịch ra đời, ngƣời ta đã xây dựng những

        sân khấu ngoài trời rất lớn, ví dụ sân khấu ở Aten chứa đƣợc

        17.000  ngƣời,  sân  khấu  ở  Mêgalôpôlit  (ở  trung  tâm  bán  đảo


        Pêlôpônedơ)  chứa  đƣợc 44.000  ngƣời.  Đồng  thời  chính  quyền

        thƣờng tổ chức những cuộc thi diễn kịch, có thời kì còn phát tiền

        cho công dân mua vé xem kịch, do đó nghệ thuật kịch càng phát

        triển.


               Kịch Hy  Lạp có hai  loại: bi  kịch và hài kịch. Những nhà

        soạn kịch tiêu biểu nhất là Etsin, Xôphôclơ và Ơripít.
   246   247   248   249   250   251   252   253   254   255   256