Page 245 - Kỹ Thuật Sửa Chữa Ô Tô
P. 245

KỸ THUẬT SỬA CHỮA Ô TÔ cơ  BẢN    243

          c Khi duy trì phanh: Bàn đạp phanh được nhấn xuống một vị trí nhất định sẽ
      được cố định, xi lanh phanh chính không tiếp tục chuyển dẩu phanh cho xi lanh
      phụ trợ nữa, lực tác dụng lên xi lanh phụ trợ và van điều khiển ở một giá trị nhất
      định. Nhưng cùng với việc lượng không khí nạp vào buồng khí tăng dẩn, áp suất
      ở hai buồng khí A, B cũng tăng lên, tạo tác dụng lực hướng xuống đối với màng
      chắn van điều khiển, vì vậy khiến bệ màng chắn và pittông di chuyển xuống dưới,
      độ mở của van không khí, van chân không giảm dần, cho tới khi hoàn toàn đóng
      lại. Lúc này đang thuộc trạng thái "hai van đóng". Áp suất dầu cân bằng với áp suất
      hướng xuống dưới của pittông điểu khiển và áp suất hướng xuống dưới được tạo
      nên bởi sự chênh lệch áp suất giữa hai buồng khí A, B. Tổng của tổng lực đẩy tác
      dụng lên màng chắn do sựchênh lệch áp suất giữa hai khoang A, c  và tổng lực đẩy
      tác dụng lên đầu phải của xi lanh pittông phụ trợ do dung dịch dầu nén cao áp tạo
      ra cân bằng với tổng lực cản mà dung dịch dẩu nén cao áp tác dụng lên đầu trái
      của xi lanh phụ trợ, xi lanh pittông phụ trợ giữ được trạng thái cân bằng ổn định,
      duy trì được cường độ phanh nhất định. Độ lớn của giá trị ổn định này được quyết
      định bởi áp suất dẩu phía dưới pittông điều khiển (áp suất dầu tại xi lanh chính),
      tức được quyết định bởi lực đạp phanh và hành trình bàn đạp phanh.
          d. Khi nhả bàn đạp phanh: Sau  khi  nhả  bàn  đạp  phanh, áp suất dầu  điểu
      khiển  giảm  xuống,  pittông  điểu  khiển  và  bệ  màng  chắn  điểu  khiển  cùng  di
      chuyển  xuống  dưới, van  không  khí vẫn thuộc trạng thái  đóng, còn van chân
      không  mở ra. Thế là  không  khí trong  hai  buồng  khí D, A, B, c bị đẩy ra, từ đó
      khiến các buồng khí A, B, c, D mỗi buổng đểu có một độ chân không nhất định.
      Thanh đẩy, màng chắn và xi lanh pittông phụ trợ dưới tác dụng của lò xo sẽ tự di
      chuyển vể vị trí ban đẩu, dầu trong ống phanh chảy về thông qua lỗ nhỏ trên xi
      lanh pittông phụ trợ, từ đó phanh được nhả.
          3.2.  Thiết bị truyền động phanh thủy lực trợ lực chân không tại xi lanh chính

          (1) Cấu tạo: Hình 13-29 mô tả cấu tạo của thiết bị truyền động phanh thủy
      lực  loại  chân  không trợ lực của xe Audi  100. Khoang trước của xi  lanh  phanh
      chính loại hai khoang nối tiếp thông với ống phanh 12 của bộ phanh bánh trước
      bên trái, đồng thời thông với ống phanh  13 của  bộ phanh bánh sau bên phải
      thông qua van phối lực phanh theo tải trọng 9. Khoang sau của xi lanh chính
      thông với ống phanh 12 của bộ phanh bánh xe phía trước bên phải, đổng thời
      thông với ống phanh 11 của bộ phanh bánh sau bên trái thông qua van phối lực
      phanh theo tải trọng 9. Buồng dưỡng khí chân không 3 và van điều khiển 2 tạo
      thành một bộ phận chỉnh thể, gọi là bộ chân không trợ lực. Xi lanh phanh chính
      được lắp trực tiếp trên đoạn trước của buồng dưỡng khí chân không, van chân
      không một chiểu 7 lắp trên bình dưỡng khí. Lực đẩy tạo ra khi bình dưỡng khí
      làm việc cũng giống như lực bàn đạp phanh, tác dụng trực tiếp lên thanh đẩy
      pittông của xi lanh phanh chính 4.
   240   241   242   243   244   245   246   247   248   249   250