Page 23 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 23

+ Góc mái đình chùa Bắc Bộ thường uốn cong tạo thành “góc đao” còn góc mái đình
            chùa Nam Bộ thường thẳng.
              +  Mộ tháp chùa Bắc  Bộ có chân dế thấp khác  với  mộ tháp chùa Nam  Bộ có chân  đế
            rất cao.
              +  Các  tháp cao,  đổ  sộ của chùa  Bắc  Bộ  khồng  thấy  xuất  hiện  ở chùa Nam  Bộ  kổ từ
            giữa thế kỷ XX trờ vể truớc, v.v...
              * Lĩnh  vực nội hàm kiến trúc (xem thêm ờ mục 3.3):
              Nội  hàm  kiến trúc đình chùa  Nam  Bộ thường không khác mấy  so với đình chùa Bắc
            Bộ, có nhiều điểm tuơng đồng nhau trên cơ sở truyền thống văn hóa Việt Nam (như: vãn
            hóa nhận thức, vãn hóa tổ chức cộng đồng, văn hóa ứng xử).

            1.4.  PHÂN KỲ LỊCH SỬKlẾN t r ú c  đ ì n h , c h ù a   n a m   b ộ
              1.4.1. Giai đoạn hình thành vùng văn hóa Nam Bộ
              1.4.1.1. Giai đoạn trước năm 1698
              a)     Tiến trình lie'll sử:
              Vào thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, chiến tranh Trịnh-Nguyẻn bắt đầu.
              Trong  tình  thế chiến  tranh  với  Đàng  Ngoài,  nhiều  dân nghèo ờ bắc  Thuận  Hóa  tìm
            cách chạy vào Chân Lạp khai hoang lập làng sinh sống. Nhãn cơ hội đó, năm  1620 chúa
            Nguyễn  Phúc  Nguyên,  “đã đặt  quan  hệ  thân  thiện  với  vua  Cliân  Lạp  lù  Preu  Chey
            Chettha II và yêu cầu cho phép cư dán Việt được  vào Tlìùy Chân Lụp buôn bún và khui
            lioang lập làng.  Vua Chăn Lạp chấp  thuận.  Nhiều  làng Việt đã ra đời  ở Mỗ Xoài  (Bà
            Rịu), Đống Nai” [46].
              Năm  1623, “ruột sứ bộ của chúa Nguyễn đến Oudong, yêu cầu được lập cơ sở ỏ  Prey
            Kór, tức Sài Gòn ngày nuy, và được đặt ở đây một sở thu thuế hàng hóa. Vuu Prea Clìey
            Clìettha II chấp thuận” [ 15].
              Giữa  thế kỷ  XVII,  nhà  Minh  đổ,  ngưòi  Minh  Hương  không  chịu  theo  nhà  Thanh,
            chạy  sang  đất  Việt  (Đàng  Trong)  và  xin  nhập cư ờ Đông  Phố (Gia  Định)  và  Mỹ  Tho.
            Cùng với di dân  Việt,  họ mờ rộng dần vùng đất khai  hoang  ra các  nơi  phụ cận Sài Gòn
            lập nên nhiẻu làng mạc, phố xá. Cũng trong khoảng thời gian này (1680), Mạc cửu, một
            di thần nhà Minh cùng họ hàng chạy sang Phnôm-Pênh xin cư trú tại Sài Mạt (Hà Tiên),
            ông  mộ thêm  di  dân  Việt  đến  đây  khai  phá  đất  hoang  lập thành  làng  mạc  rồi  xin  Ihần
            phục chúa Nguyễn.
              Năm  1698,  Thống  suất  Nguyễn  Hữu  Cảnh  dâng  lệnh  chúa  Nguyễn  vào  Nam  kinh
            lược,  ỏng  đã  “lấy  đất  Nông  Nại  đặt  lùm pliíi  Gia  Định,  lập xứ Đồna  Nai  làm  huyện
            Phước Long, dipig dinh Trấn Biên; lập xứ Sài Gòn làm huyên Tân Bình, diừig dinh Phiên
            Trấn"  [15],  Hai  dinh  Trấn  Biên  (Biên  Hòa),  Phiên  Trấn  (Gia  Định)  được  chính  thức
            thành lập, số hộ nông dân đã lẽn đến hơn bốn vạn.

            24
   18   19   20   21   22   23   24   25   26   27   28