Page 21 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 21

đãng  đối  trên  một  trục  “chính  trung”  lại  vừa  bố  cục  tự do  trải  rộng  trong  khuôn  viên
             chùa.  Các  gian  nhà thường  có  tìr 3  đến  5  gian  kết  hợp  thêm  hai  “chái” mờ rộng  (chùa
             Thập Tháp), có tiền đường và hậu sở nối kết thành bố cục mặt bằng hình chữ “khẩu  P ”.
             Về chi tiết kiến trúc, chùa cũng được chống dỡ bởi  hệ cột và hệ vì kèo được  liên kết với
             nhau  bằng  hệ “chồng  rường-giả thủ” cổ  điển của  “thức” kiến trúc  chùa Trung  Bộ.  Đặc
             biệt  kiểu  nhà  “trùng  thiềm  điệp ốc”  (nhà  đói  chồng mái)  thèo kiểu cung  đình  khá  phổ
             biến,  nhất  là  các  chùa do  hoàng  tộc  hỉ  cúng  như chùa  Diệu  Đế,  chùa Từ Hiếu,...  Mái
             chùa cũng  có  phẩn cao hơn.  Càng  về  sau,  nhất  là sau  những  lần đại  trùng tu  xuất  hiện
             nhiểu chi tiết bẽtỏng và vật liệu xây dựng hiện đại hơn (chùa Báo Quốc).
               1.3.3.  Kiến trúc đình, chùa Nam Bộ

               1.3.3.1. Kiến trúc đinh Nam Bộ
               Đình làng Nam Bộ có chức  năng chính là thờ Thẩn vào thời gian đầu,  sau này  trong
             giai  doạn  thuộc  Pháp,  dinh  còn  có  chức  năng  là  cơ sờ hành  chính  làng.  Cùng  với  các
             hoạt động cúng  !ễ, các  hoạt động  hành  chính,  văn  hóa  văn  nghệ  như hát cải lương,  hát
             bội, cúng kỳ yên... cũng được tìm thấy trong sinh hoạt đình làng Nam Bộ.
               Về tổng thể kiến trúc, thường chia làm ba phẩn theo trục "thần đạo”:  Võ ca - võ qui
             -  Chính diện. Đôi khi có thẽm nhà trù (bếp), nhà Hội đồng  (đình Phú Nhuận)...  v ề  chi
             tiô't kiến  trúc, đình  thưòng có  mặt  bằng hình  vuông,  mái  “bánh  ít” được chống dỡ bởi
             hệ  cột  “tứ trụ”  ở  giữa  (cột cái),  các  cột  con  bao quanh.  Hệ  kèo được  “gác”  lên  nhau
            bằng liên kết mộng,  nối  vào nhau bằng các thanh “trinh” và các cột được kê khỏi  mặt
            dất bằng tán đá...  tất cả lạo thành hệ khung sườn “kẻ chuyền - đầm trinh - cột kê” đặc
            trưng của kiến  trúc  cổ  Nam  Bộ.  Thân  cao  gẩn  3/4 cao  mái,  nhưng  sóng  nóc  rất  ngắn
            (cấu trúc đặc  thù của loại  nhà “ngũ  hành  31 ÍT”). Các đình  làng xưa thường có nền rất
            cao và vườn cây ăn trái xung quanh. Càng về  sau, nhất là sau  1954, kiến trúc đình làng
            đã  mất  chức  nàng  hành  chính,  trở về  duy  nhất  chức  năng  ban  đẩu  là  nơi  tín  ngưỡng
            Thành  Hoàng  và  người  có  công,  do  đó  sinh  hoạt  đình  làng  ngày  càng  hạn  chế,  và
            khuòn viên cũng bị thu hẹp dẩn.
              1.3.3.2. Kiến trúc chùa Nam Bộ
              Chức  năng chính  của chùa là nơi  thờ Phật  và tu học của  tăng  sĩ,  vé  sau,  trong  chùa
            còn xuất hiện thêm chức nãng thờ bá tánh, trường học giáo lý (chùa Vĩnh Tràng).
              Về  tổng  thể kiến trúc,  chùa Nam  Bộ cũng  thường có khuôn viên  rất  rộng có khi  lên
            đến vài  mẫu  (hecta).  Chính vì vậy,  bố cục toàn bộ ngôi chùa thường kết hợp phát triển:
            Vừa đãng đối trẽn một trục “chính trung” lại vừa bố cục tự do trải rộng trong khuôn viên
            chùa tương  tự Trung  Bộ.  Trên  trục  chính  trung  thường chia làm  ba phẩn:  Chính điện  -
            giảng đường - trai  đường. Thường kết hợp thêm nhà trù (bếp), tăng xá (chùa Giác Lâm).
            Về chi tiết kiến trúc, chùa thường có mật bằng hình vuông,  mái “bánh ít” v.v... tương tự
            22
   16   17   18   19   20   21   22   23   24   25   26