Page 17 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 17
Đặc biệt dưới thời nhà Mạc, kiến trúc đình làng bắt dầu hưng thịnh với các kiến trúc
đinh đồ sộ như đình Lỗ Hạnh (Bắc Giang), Tây Đẳng (Hà Tây) (Xem hình 1.14)... Đến
thế kỷ XVII, tòa đại đình được mở rộng từ bốn hàng cột thành sấu hàng cột và cuối thế
kỷ này kiến Irúc đình xuất hiện thêm “chuôi vồ” làm hậu cung thờ Thần tạo thành mặt
bằng chữ đinh ( T ), sau đó một “hậu sờ”xây dựng thêm phía sau thành chữ công (X ).
Kiến trúc đình, chùa trong thời kỳ này, nhìn chung, vẫn sử dụng kết cấu phúc hợp gỗ
- đá - đất nung, vẫn là: Móng đá, tường gạch nung, khung sườn gỗ, mái ngói nhưng hình
thức cũng như cách thức liên kết có biến đổi nhiều, vể kết cấu, háu hết kiến trúc đình,
chùa; bộ khung sườn gỗ đã nhiều lần biến thê và mỗi vùng có nét đặc trưng riêng. Cụ thể
như: Từ kết cấu với hệ thống “xà, kẻ bẩy, chổng rưcmg”, vì kèo kiểu “giá chiêng”, “tán
đá” sử dụng khá phổ biến ờ vùng Bắc Bộ, biến thể thành hệ thống kèo “giả thủ” ở Trung
Bộ và hệ kèo “trổng cối, kẻ chuyền, đâm trinh” vùng Nam Bộ; hoặc tán đá chân thấp
Bắc biến thành chân cao ờ Trung và rất cao ở Nam; hay ngói “mũi hài” Bắc biến thành
ngói “vẩy rồng” ờ Trung và ngói “máng xối” ờ Nam... Như vậy, cùng với xã hội có quá
nhiẻu biến động, kiến trúc đình, chùa Việt Nam cũng biến động và thay đổi khỏng
ngừng suốt chiều dài đất nước.
1.2.3. Đình, chùa Việt Nam duới triều đại phong kiến cuối cùng
Sau cái chết đột ngột của vua Quang Trung, vương triều Tây Sơn suy yếu dẩn và đi
đến thất bại, Nguyễn Ánh giành lại cơ đồ, lặp nên triều Nguyễn và trở thành triều đại
phong kiến cuối cùng tại Việt Nam. Gia Long (Nguyễn Ánh) sau khi lên ngôi đã tỏ ý
muốn hạn chế Phật Giáo, nhưng đến Minh Mạng, Thiệu Trị lại muốn ủng hộ Phật Giáo,
đến Tự Đức trờ lại các lệnh cấm đối với Phật Giáo; các biến đổi liên tục này làm cho
Phật Giáo Việt Nam rơi vào tình thế khá đặc biệt. Tuy thế, nhiều ngôi dại tự cũng dã ra
đời, nhất là tại kinh thành Huế và các tỉnh phía Nam: Hai nơi rất gẩn và rất xa triều đình
nhà Nguyễn. Thời Gia Long, kiến trúc chùa phát triển chủ yếu tại Nam Bộ như chùa
Giác Viên, Long Nhiểu, Phụng Sơn, Linh Sơn, Tôn Thạnh, Bửu Lâm..., thời Minh Mạng
và Thiệu Trị, kiến trúc chùa phát triển mạnh ờ Huế như chùa Thánh Duyên, tháp Phước
Duyên (Thiên Mụ), chùa Diệu Đế, Vạn Phước, Từ Hiếu...
Đối với kiến trúc đình, vào thời dại phong kiến cuối cùng, ít biến đông và ổn định hơn
so với kiến trúc chùa cùng thời. Có lúc loại hình này đã phát triển ổ ạt như vào dầu thế kỷ
XX, khi mà đình làng là nơi thực hiện “việc làng" của ban “huơng chức hội tề” thời Việt
Nam bị trị, để rồi, sau đó sa sút dán và chỉ còn là các công trình lịch sử vãn hóa đơn thuần.
Trong thời kỳ này cũng có nhiều kiến trúc đình nổi tiếng như: Đình Võ Liệt (Nghệ An),
Nại Nam (Đà Nẵng), Bình Hòa (TP.HCM), Thắng Tam (Vũng Tàu), Mỹ Phước (An
Giang), Bình Thủy (Cán Thơ), Phú Nhuặn (TP.HCM) (Xem từ hình 1.26 đến hình 1.31).
18