Page 13 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 13
Qua đời hậu Lê, Nho giáo đủ mạnh và giữ vai trò độc tôn; mặt khác, sau thời gian
chiến tranh với quân Minh hàng chục năm, kinh tế đất nước bị suy kiệt; vì thế, kiến trúc
chùa đã kém phát triển hơn thời gian trước. Tuy vậy cũng có một số chùa nổi tiếng như
Trãm Gian, Bối Khê (Xem hình 1.10)... với đặc trưng thờ tự “tiền Phật, hậu Thánh” hoặc
“tiền Phật, hậu Thần”.
Riêng mảng đình, đến nay chưa có lời giải đáp chắc chắn là đình xuất hiện từ bao
giờ, nhưng qua các di tích kiến trúc đình còn biết niên đại thì “những ngôi đình xưa nhất
đêu thuộc thời Mạc hay th ế kỷ XV r ’ [52] như: đình Phù Lưu (Xem hình 1.11), đình Yên
Sờ (Xem hình 1.12), đình Lỗ Hạnh (Xem hình 1.13), đình Tây Đằng (Xem hình 1.14)...
hoặc theo văn bia xác định niên dại như đình Nghênh Phúc, đình Đại Đoan, đình Trìmg
Hoài... Nhưng trước đó, từ năm 247, Khương Tăng Hội đã viết trong “Lục độ tập kinh”,
truyện số 85, đã đề cập đến ngôi đình. Với “chi tiết này hẳn vì đình đã là một hiện tượng
phổ biến ờ Việt Nam ít ra là trong thế kỷ Iir' [52], vói chức năng là ngôi nhà chung và
là trạm nghỉ chân (đình trạm 'ặỀdi). Đình trong thời kỳ này, ban đầu là các ngôi nhà
chung với kiến trúc đơn giản, càng vể sau, kể từ thời Mạc (khoảng thế kỷ XVI), đình là
kiến trúc dồ sộ, và uy nghiêm nhất trong làng. Đình thường được xây dựng theo thuật
“phong-thủy” với nhiều kiểu mặt bằng đa dạng như chùa (chữ Nhất—; Tam H , Đinh T ,
Công X , Quốc ® ), nhưng từ thế kỷ XVI trở vể truớc, dạng thức chữ “nhất” với một tòa
“đại đình” uy nghi rộng lớn là phổ biến hơn cả. Một số kiến trúc đình cổ còn tồn tại như
đình LỖ Hạnh, đình Thổ Hà, đình Đình Bảng, đình Chu Quyến (Xem hình 1.15)... đã
cho thấy sự đồ sộ, “tày đình” của loại hình công ốc này ở làng xã Việt Nam.'
Hình 1.10. Chùa Bối Khê. Hình 1.11. Đình Phù Lưu.
[Nguồn: 65] [Nguồn: 52]
Hình 1.12. Đình Yên Sđ. Hình 1.13. Đình Lỗ Hạnh.
[Nguồn: 52] [Nguồn: 52]
14