Page 19 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 19

- Gạch hoa xi-măng thay thế dần gạch đất nung,
              - Bộ khung sườn gỗ truyền thống đang dần được bê-tông hóa.
              Đặc  biệt  Irong  kiến  trúc đình,  chủ  yếu  là  tại  Nam  Bộ,  xuất  hiện  thêm  kiến  trúc “võ
            ca” làm nơi ca hát cúng dinh, hiện tượng này đã làm thay đổi khá lớn mặt bằng kiến trúc
            đình so với trước dó.
              Điểm  qua  kiến  trúc  đình,  chùa  truyẻn  thống  Việt  Nam  trong  tiến  trình  lịch  sử cho
            thấy:  Giữa đình  và chùa luôn có sự nhất quán về thể  thức'kiến  trúc;  thường  xuyên  tiếp
            thu có chọn  lọc các tiến  bộ kiến trúc  thời  dại  của tìmg thòi  kỳ;  chúng là sản  phẩm  tiêu
            biểu của xu thế văn hóa thời đại và luôn có sự sáng tạo phù hợp với điểu kiện tự nhièn xã
            hội từng vùng. Chính các yếu tô này đã tạo cho kiến trúc đình, chùa Việt Nam vừa có cái
            chung  của  nền  văn  hóa  Việt  Nam,  vừa  có  cái  riêng  mang  tính  đặc  thù  của  từng  địa
            phương mà kiến trúc đình, chùa Nam Bộ là một tiêu biểu.

            1.3. KHÁI QUÁT KIẾN TRÚC ĐÌNH, CHÙA GIỮA CÁC MIỀN TẠI VIỆT NAM

              1.3.1. Kiến trúc đình, chùa Bác Bộ
              1.3.1.1. Kiến trúc đình Bấc Bộ
              - Đối với đình cổ tại Bắc Bộ có thể nhận thấy:
              Đình  làng  Bắc  Bộ  “tó công trình  kiến  trúc  côìig cộng tập  hợp  dược  Iihữiig tủi năng
            điêu khắc vù ngliệ thuật tạo liình  khác nhau của tập thể cộntỊ đồng làng xã Việt Num"
            [49].  Chức nâng đình rất đa dạng, phong phú. Ngoài chức năng chính là thờ Thẩn, đình
            còn  là nơi  tổ chức  các  lễ  hội  lớn  nhỏ  từ các  lễ  cúng Thành  Hoàng  đến  lỉ  khao,  vọng.
            Cùng  với  các  hoạt  động  cúng  lê,  các  hoạt  động  văn  hóa,  văn  nghệ  nhu hát  tuồng,  hát
            chèo, đánh vật, đánh CÖ, chọi chim họa mi, chọi gà, chạy chữ, cướp cầu, rối nước... cũng
            được tìm thấy trong sinh hoạt đình làng.
              v ể  tổng  thể  kiến  trúc,  thường khá  giản đơn  bao gồm  một “tòa  vũ” có 5  hay  7  gian
            (đình  Chu Quyến), đôi  khi  có thêm  “chuôi  vổ” làm  hậu  sở (đình Đình  Bảng) hoặc  một
            hậu  cung  ờ  bên  trên  gian  giữa  cao  khoảng  2,7m  (đình  Tây  Đằng).  Sau  này  xuất  hiện
            thêm  nhà tiền  tế và các  nhà tảo mạc chạy dài  hai  bên  sân  phía trước...  về chi  tiết  kiến
            trúc, đình thường được chống đỡ bởi hệ cột mà mỏi cột có duờng kính rất to, có khi đến
            gần 0,8m (đình Chu Quyến), hệ vì kèo được liên kết với  nhau bằng “kẻ ngổi”, “xà bẩy”
            và “xà tứ” tạo thành “thức” cổ điển cùa kiến trúc đình Bắc Bộ. Các đình làng xưa thường
            có dạng nhà sàn với sàn gỗ thấp khoảng 0,7m đến 0,8m đặt trên các “địa thu” mộc mạc.
            Các  chi  tiết  kiến  trúc  khác  như  “nghé  đỡ”,  “câu  đầu”...  được  chạm  khắc  rất  tinh  vi.
            Ngoài ra ihân đình rất  thấp chỉ cao bằng  1/3 mái. Càng về sau, nhất là sau những lần đại
            trùng tu, xuất hiện nhiều chi tiết chạm khắc tinh vi hơn.

            20
   14   15   16   17   18   19   20   21   22   23   24