Page 159 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 159
3.3.3.2. Kiến trúc đình, chùa Nam Bộ phản ánh việc ứng phó mói trường lự nhiẽn
Sản vật của môi trường tự nhiên tại Nam Bộ rất nhiều, nhưng khó khăn do tự nhiên
gây ra cũng không ít. Trong cái khó của việc “phá sơn lâm, đâm hà bá” còn có cái khắc
nghiệt của khí hậu nóng ẩm Nam Bộ. Để tồn tại, các lưu dân Việt dã cùng nhau xây
dựng những công trình kiến trúc khá tốt nhằm ứng phó với môi trường tự nhiên ấy.
Để úng phó với cái nóng, các nhà tạo tác đã chia công trình thành nhiều phần nhỏ,
chúng được phàn cách bời các khoảng sân trống tạo nên sự thông thoáng cho các phẩn
bên trong công trinh. Từ dấy các kiểu nhà “bát dẩn”, “nối đọi” hay “nối dpi có sân
tương”... đã đuợc hình thành. Kiến trúc chùa Vĩnh Tràng - Mỹ Tho, với hai sân thiên
tỉnh, đã được xây dựng theo kiểu thức này, là một thí dụ điển hình. Kiến trúc có sân
trong (còn gọi là “thiỂn tỉnh”, “ sân tương” hay “patio”) cũng ra đời từ lý do này.
Để ứng phó với khí ẩm, việc thông gió cho công trình rất dược chú trọng. Ngoài việc
tạo các khoảng sân trống, mái đình, chùa thường rất cao, phần “khu đĩ” (tam giác ờ đầu
hồi) được chừa thoáng để thoát nhiệt ẩm và khói hương. Dòng đối lưu không khí từ các
khoảng sân trống hoặc từ các thông gió trên đầu tường, song cửa... đi vào công [rình và
thoát ra tại các đinh cao này (từ thấp lên cao) kéo theo không khí nóng-ẩm từ trong ra
ngoài. Cấu trúc các đình, chùa xưa tại Nam Bộ thường theo phương cách ấy.
Đẽ ứng phó với mưa, những cơn mưa như “cẩm tỉnh mà đổ”, trút lượng nước rất lớn
xuống công trình cùng một lúc, người dân Nam Bộ đã phải thay đổi cấu trúc mái nhà và
vật liệu lợp truyền thống, làm thế nào lượng nước mưa ổ ạt ấy thoát khỏi mái 'nhà nhanh
nhất. Đó là một trong các ]ý do quan Irọng để cho ra đời cấu trúc mái nhà có bờ biên
thẳng và ngói “máng xối” ]àm vật liệu lợp trong kiến trúc đình, chùa, vào các thời kỳ
đẩu tại Nam Bô.
Cũng để ứng phó với mưa dầm làm “mục” các vách gỗ bao che bên ngoài công trình
(Vách “bổ kho” hay “đố bản”), khi vừa mới tiếp cận với kỹ thuật xây dựng hiộn dại - hồ
xi-măng, cùng với “cát sông”, “gạch đất nung” có sẵn, các nhà xây dựng đã dùng “tường
gạch” bao che ngoài công trình để ứng phó với mưa nắng và chống mục.
Đê chống mục chân cột gỗ do ứ nước, đổng thời chống mổi mọt phá hoại (cách ấm),
“tán đá” được sừ dụng. Đặc biệt, tại vị trí các hàng côt hiên, tán đá có chân đế rất cao
(Xem hình 3.124) (Thí dụ cột hàng hiên chùa Giác Viên-TP.HCM) (Xem hình 3.125).
Cũng với cách ứng xử này, các mộ tháp sư tăng trong các chùa tại Nam Bộ có chân đế
rất cao, có khi đến hai tẩng (như mộ tháp chùa Giác Viên-TP.HCM) (Xem hình 3.126).
Để tránh ứ nước khi mưa dầm, các tấn đá thường không có lõm giữa nơi tiếp xúc với
chân cột. Lõm giữa này lẽ ra phải có để tăng đô ổn định chân cột khi có chấn dộng do
gió bão, tránh chuyển vị tức thời; nhưng Nam Bộ ít gió bão lại mưa nhiểu, lõm giữa tán
đá được bỏ đi do thực tế này.
Cũng chính vì Nam Bộ ít gió bão, bộ khung sườn kiến trúc đình, chùa, do vậy, cũng
thanh mảnh hơn bộ khung sườn Bắc Bộ, nơi có nhiẻu gió bão hàng năm. Bộ “dàn trò
160