Page 158 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 158

Trong quá trình khai  hoang,  qua suy đoán, chắc hẳn có rất nhiêu cây gỗ rừng bị đốn
           hạ và trong dó có khỏng  ít các loại gỗ quí.  sản vật của môi trường tự nhiên  phong phú
           này đã nhanh chóng được tận dụng trong nhiều ngành trong đó có ngành xây dựng. Kiến
           trúc dinh, chùa từ buổi đầu của cư dân nơi đây, đã sử dụng bộ khung sườn thuần gỗ xuất
           phát từ lý do này.  về hình  thức sử dụng khung  sườn gỗ tuy có phần giống cấu trúc gỗ
           của đình  chùa Bắc Bộ,  nhưng  xuất phát điểm có khác:  Gỗ sử dụng cho đình,  chùa Bắc
           Bộ  thường  không  phải  được  khai  thác  tại  chỗ  mà  do  các  “Hậu  Phật  hoặc  Hậu  Thần”
           (Người  ra tiền để cất chùa hoặc  đình) mua từ rất xa với giá thành khá cao đem  về xây
           dựng, do đó rất quí nên được giao cho các thợ chuyên môn giỏi gia công, chăm chút rất
           công  phu.  Ngược  lại,  gỗ  sử dụng cho đình,  chùa Nam  Bộ  (buổi  đẩu) thường dược dân
           làng hay bá tánh khai thác, tận dụng tại chỗ cùng với viộc khai hoang nên giá thành rất
           rẻ, lại hiếm hoi thợ chuyên môn giỏi, vì vậy trong gia cõng ít chăm chút và có phần lãng
           phí hơn.
             Vùng đất  Nam  Bộ là  vùng đất  trũng, có hơn nửa diện  tích ven  biển  là vùng nước  lợ
           (nước ngọt vào mùa mưa và mặn vào mùa nắng), chính vì vậy rất thích hợp cho các loại
           cây sú, vẹt, đước, bẩn, Iràm, dừa nước... sinh sống, đặc biệt tràm, đước và dừa nước mọc
           thành rừng khắp Nam Bỏ.  Người dân  tại đây đã tận dụng các sản vật tự nhiên này làm
           vật liệu xây dựng cho ngôi nhà của mình. Kiến trúc đình, chùa buổi đầu, trong các công
           trình phụ như bếp, kho, nhà khách..., cũng đã tận dụng chúng trong kiến tạo.
             Tiếp giáp vùng đất trũng ven biển, tại Nam Bộ, là vùng “đất thịt” (á sét), và cao lanh
           rất phù hợp cho sản xuất vật liệu đất nung,  gốm sứ. Chính nhờ môi trường tự nhiên này
           mà gạch, ngói, gốm sứ... xuất hiện và được  sử dụng rất sớm (từ thòi  Phù Nam) tại Nam
           Bộ.  Tuy nhiên giá có đắt hơn “lá xé” (lá dừa nước) nên chỉ sử dụng cho các công trình
          quan trọng như đình, chùa chính.
             Nam  Bộ  còn có  núi  giữa đồng  bằng  (Thất  Son,  Bà Đen,  Thị  Vải...) nên  vùng  trung
          gian  tiếp giáp giữa đổng  bằng  và núi, đôi chỗ  là vùng “đất phún” hoặc  “đá  ong”.  Phối
           hợp cùng đá núi, đá ong là vật liệu dễ tạo hình, đùng làm vật liệu tấn nền rất tốt.  Riêng
           đất phún, cho đến ngày nay vẫn được làm vật liệu tôn nển trong xây dựng và giao thông.
             Nam  Bộ còn  có vùng  núi đá vôi  tại  Kiên  Lương  - Hà Tiên,  là nguyên liệu chính để
           nung lanh-ke - nguyên liệu sản xuất xi-mãng phục vụ cho cấc công trình kiên cố và hiện
          đại.  Nhờ có sản vật tự nhiên này và tiếp thu thành tựu kỹ thuật hiện đại phưcmg Tây khá
           sớm, kiến trúc Nam Bộ, trong đó có kiến trúc đình, chùa, ngay từ cuối thế kỷ XIX đã sử
          dụng “hồ xi-mãng” và “bê-tông” trong xây dựng.
            Nam  Bộ lại  có  nhiểu  sông rạch,  đặc biệt các  sông có thượng  nguón  là núi  sa thạch
          như sông Đổng Nai, sông Sài Gòn, sông Bé... ở hạ lưu có rất nhiều bãi cát bổi lắng (cát
          sông). Các nhà xây dựng đã tận dụng sản vật tự nhiên này làm cốt liệu cho hồ xi-măng
          và bê-tông dùng trong xây dựng các công trình kiến trúc.
            Ngoài ra,  vật liêu gỗ chạm, gốm sứ, “miểng” cẩn... là cấc vật liệu trang trí mang nét
          đặc thù trong kiến trúc đình, chùa Nam Bộ.

                                                                     159
   153   154   155   156   157   158   159   160   161   162   163