Page 45 - Giao Thông Kỳ Diệu
P. 45
chạy thừ trốn đường sát chuyên dùng. Đường sát chạy thử dàl 7 km, khl dùng toa
x@ thí nghiệm dài 13,5 m, rộng 3,8 m, nặng 10 tẵn, tốc độ dạt 517 km/h.
Vừa ở mặt dất, nhưng lại không tiếp xúc VỚI đất, cái trạng thái chập chờn như
thế, lại khiến cho tàu xe có những tính năng đặc biệt nào dó.
bAnh xe không còn quay đểu
Từ xe “mọc chân” đến kiểu tàu hỏa nổi
Xe lửa mới ra đời, ở phía sau “mọc ra” rất nhiều chân, những cái chân này lẩn
lượt duỗi ra đẩy cho xe lửa tiến về phía trước. Sau này được gợi ý bởi việc chuyển
động bằng bánh răng, nên đã đổi bánh xe thường trên toa tàu thành bánh răng. Ray
sắt cũng đổi thành loại ray có răng cưa, ăn khớp với răng trên bánh xe, như vậy mới
có thể đẩy được cả đoàn tàu chở nặng. Một đoàn tàu như thế, tốc độ sẽ rất chậm và sẽ
thường xuyên bị trục trặc, giá thành chế tạo của đường ray cũng sẽ rất cao. Trong thời
đại ngày nay, với cái nhìn mới của sự phát triển khoa học-kĩ thuật, chúng ta nhớ lại
quá trình phát triển kĩ thuật thời xưa mà có khi còn thẫy rất buồn cười. Và chúng ta
lại đặt ra câu hỏi, liệu rằng trong tương lai không xa, chính chúng ta nhớ lại kĩ thuật
của ngày hôm nay, phải chăng cũng sẽ có cùng thái độ như vậy?
Năm 1825, George Stephenson người Anh chế tạo ra đầu máy hơi nước. Và từ
đó đầu máy hơi nước mới đảm nhiệm công việc chuyên chở hành khách trên
tuyến đường sắt đẩu tiên của thế giới nối hai thị trán Stockton và Darlington ở
miền Trung nước Anh. Điểu thủ vị là Stephenson lại thành công ở chỗ ông đã phá
vỡ được quan niệm cổ hủ cho rằng đã là xe lửa là phải có bánh răng, bỏ được
những răng khớp trên bánh xe và đường ray, từ đó đã nâng cao được tốc độ xe lửa
lên tới 13km/h, mặt khác đã hạ thấp được rất nhiều giá thành trong việc chế tạo
đầu máy và đường ray. Bởi vậy Stephenson cũng được công nhận là người sáng
chế phát minh ra xe lửa.
46