Page 468 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 468
thủy phân và thải trừ của cơ thể. Thí dụ hoá chất bảo vệ thực vật nhóm lân sẽ thủy
phân nhanh hơn trong cơ thể động vật có vú so vối côn trùng, do đó các động vật có
vú thường có khả năng đề kháng vối hoá chất bảo vệ thực vật.
Tác dụng gây độc cấp tính (Acute toxicity) của hoá chất bảo vệ thực vật nhóm
lân và carbamat có thể gây chết động vật và diệt côn trùng do tác động ức chế
acetycholine esterase, một enzym rất cần trong hệ thốhg thần kinh để dẫn truyền
acetycholih thần kinh (neurotransm itter acetylcholine).
Đặc tính gây độc thần kinh (neurotoxicity) do hoá chất bảo vệ thực vật thường
phô biến với các triệu chứng liệt, run rung, cử động thiếu phôi hỢp, thay đổi cảm
xúc và hành vi (14).
Tác động gây đột biến (Mutagenicity) thay đổi thông tin di truyền của hoá chất
bảo vệ thực vật bao gồm cả DNA alkyl hoá (DNA alkylation) xen (intercalation) các
phân tử đột biến vào chuỗi xoắn DNA (DNA helix) cắt đoạn (breakage) và đan xen
(crosslinking) nhiễm sắc thể. Tác động gây đột biến tự thân có thể xem là hiệu quả
gây độc và kết quả sẽ dẫn đến ung thư (15).
Tác động gây ung thư (Carcinogenicity) của nhóm hoá chất bảo vệ thực vật clo
hữu cơ gây khối u ác tính (malignant tumors) trên động vật có vú do thành phần
nitrosamin trong chất diệt cỏ nitroaniline đã đưỢc nhiều tác giả thông báo (14, 15).
Tác động gây quái thai (teratogenicity) của hoá chất bảo vệ thực vật thuộc
nhóm clo hữu cơ; Mirex, Kepone, DDT đã gây quái thai trên động vật thử nghiệm.
Ke cả nhóm phôi pho hữu cơ đặc biệt là dimethoat và monocrotophos đều có khả
năng gây quái thai, tác động thần kinh, gây rối loạn sự phát triển và biến dạng cấu
trúc bộ xương, xương sọ (skull) và cơ quan nội tạng (viscera) (14, 15).
Tác động sinh sản (Reproductive toxicity) khác vối gây quái thai bao gồm gây
đôc tới bào thai (íềtotoxicity) hoá chất bảo vê thưc vât còn tác đông giảm khả năng
sinh sản của nữ, giảm tinh trùng và khả năng tình dục của nam (libido). Nlióm hỢp
chất chlorinated hydrocarbon như methoxychlor và o, p'-DDT còn có hoạt tính gây
động dục (estrogenic activity) và làm suy giảm khả năng sinh sản. Chất xông hơi
dibromo chloropropane (DBCP) đã gây suy giảm khả năng sinh sản tinh trùng trên
động vật thử nghiệm và công nhân của xí nghiệp sản xuất DBCP (14, 15).
Tác động gây rối hành vi (Behavioral toxicity) hoá chất bảo vệ thực vật đã gây
rối loạn hành vi, giảm trí nhớ và khả năng tiếp thu, tăng hoạt động (hyperactivity)
và rối loạn hành vi thân thể trong thử nghiệm (physical behavioral tests) như là
bơi, đi bộ do tác động của thần kinh (14).
Sự cảm ứng enzym (Enzyme induction) hoá chất bảo vệ thực vật có thể gây
tảng hoạt ứng enzym, tăng nồng độ tế bào trong màng lưâi nội bào tương
(endọplasmic reticulum membrane), tăng sự biểu hiện gen (expression genes) trong
enzym và tăng sự chuyển hoá các chất cần thiết như hormon. cảm ứng men hiện
chưa được các nhà khoa học xem là độc hại, do khả năng bảo vệ của cơ thể (14, 15).
Đánh giá nguy cơ và đề phòng ô nhiễm hoá chất bảo vệ thực vật: Ngay từ năm
1958 cơ quan Bảo vệ môi trường (EPA) và EDA Mỹ đã có quy định bổ sung dựa theo
nghịch lý Delaney (Delaney Paradox) là tất cả phụ gia thực phẩm đều phải an toàn,
460