Page 346 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 346

12.  NUỒIDUŨNG QUA ĐƯỜNG RUỘT VÀ TĨNH  MẠCH



               Trên 2300 năm trưốc đây các nhà y học Ai Cập đã theo dõi và nhận thấy một sô"
            bệnh nhân khi  mắc bệnh,  trạng thái  nhiễm bệnh càng trầm   trọng và  nặng hơn,  là
            do trong cơ thể thiếu  nhiều chất dinh dưỡng.  Đe chữa khỏi bệnh cần phải sử dụng
            các dung dịch có lượng thành phần dinh dưỡng cao thụt vào hậu  môn.  Thời gian đó
            các thầy thuốc Ai Cập đã thụt qua hậu môn,  trực tràng cả sữa, rượu vang, nước đậu
            và nước cháo loãng v.v... (1 ). Bắt đầu từ năm  1617 nhiều thầy thuốíc lâm sàng đã sử
            dụng Ổng thông  qua  mũi  để  nuôi  dưỡng bệnh  nhân  và  thức  ăn  là  dịch  ép  chiết  từ
            thịt bò  đưỢc  nấu chín cho  dễ  tiêu  hóa,  và  trộn vối  dịch  lấy  từ tuỵ con  vật vừa  mới
            giết  (1).  Năm  1878  Brown  Sequard  đã  sử  dụng  biện  pháp  nuôi  dưỡng  qua  đường
            ruột  cho  bệnh  nhân  bị  thần  kinh  (2).  Sau  đó  ngoài  đường  dạ  dày,  các  thầy  thuốc
            lâm sàng còn đưa dung dịch nuôi dưỡng vào thẳng ruột và tiêm tĩnh mạch. Đặc biệt
            từ năm  1968 và  1970,  Wilmore,  Daily và cs (3,  4)  đã cải  tiến  phối chế và  sử  dụng
            dung dịch thuỷ phân casein để tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch ngoại vi.

            1.  Kiểm tra đánh giá thực trạng dinh dưỡng trên cơ thể người

                Đã có nhiều thầy thuốc lâm sàng sử dụng các kỹ thuật đơn giản để đánh giá xác
            định trạng thái dịch tễ của bệnh nhân suy dinh  dưởng (epidemic  malnutrition)  khi
            nằm  viện  (5,  6 ,  7).  Tiếp  theo  sẽ  tìm  biện  pháp  để tăng cường  nuôi  dưỡng  đưa  trực
            tiếp bổ sung các chất dinh dưõng vào cơ thể.

            1.1.  Phương pháp nhân trắc

                Sử dụng môn học đo cơ thể người  (nhân trắc định học  -  anthropometrics)  để đo
            trọng lượng cơ thể (BW)  thường không tốh kém  và phát hiện đưỢc ngay trạng thái
            suy dinh dưỡng của toàn bộ cơ thể,  bao gồm:  các  mô cơ bắp,  thịt xương và cơ quan
            nhu mô.  Nếu trọng lượng cơ thể giảm trên  5%  BW trong  1  tháng hoặc  10%  trong  6
            tháng, có thể kết luận đã có dấu hiệu lâm sàng về thiếu dinh dưỡng (8 ).
                Có hai chỉ tiêu xác định và tính trọng lượng cơ thể là phần trăm  (%) trọng lượng
            cơ  thể  theo  lý  tưởng  (%  IBW,  Ideal  Body  Weight)  và  (%)  trọng  lượng  cơ  thể  theo
            hiện trạng (%) ƯBW, ưsual Body Weight) theo công thức sau:

                                                    BW  hiện  tại  100%
                                        (%  IB W )-
                                                            ĨBW


                                                    BW  hiện  tại  100%
                                        %  UBW) =
                                                           UBW

            1.2.  Đo chỉ s ố  sinh hoá

                Đo  chỉ  số sinh  hoá  là  chỉ  tiêu  đánh  giá  sự  chuyển  hoá  tổng  hỢp  protein  phụ
            thuộc vào châT lượng cung cấp các chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn.  Protein nội



            338
   341   342   343   344   345   346   347   348   349   350   351