Page 314 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 314

dinh  dưõng  đã  dẫn  đến  tổn  thương  gan  và  giảm  thiểu  năng  sinh  dục
          (hypogonadism). Tất cả sự biến đổi trên đều tác động tới chuyển hoá xương.
              Theo  dõi  trên  một  nhóm  cộng đồng dân  cư,  nếu  chỉ  uống  một  lượng  rưỢu  vừa
          phải  sẽ  tăng  mật  độ  xương  (21)  và  giảm  sự  tổn  thất  xương  (22).  RưỢu  cũng  kích
          thích sự chuyển hoá androstenedion thành estron và hỢp chất gây động dục này đã
          bảo vệ xương.
              Fluor (Pluoride):  fluor kích  thích  hoạt  tính của  nguyên  bào  xương  (tạo  cốt
          bào) và có thể thay thế ion hydroxyl trong cấu trúc hydroxyapatit của  xương.  Kết
          quả của sự thay thế này trong xương sẽ tăng kích thước tinh thể (crystalline size)
          trong xương nhưng giảm chất lượng xương và  độ co dãn  (elasticity).  Đặc biệt nếu
          thành  phần  xương  có  nhiều  Auorur,  chất  lượng  sức  căng  của  xương  (tensile
          quality) sẽ bị giảm.
              Khi sử dụng liều điều trị cao trong bệnh loãng xương, ũuorur làm  tăng mật độ
          xương tại cột sống, nhưng tác động tới nguy cơ gẫy xương vẫn chưa rõ. Trong một số
          thử nghiệm vối liều 75mg Auorur không nhận thấy sự bảo vệ gẫy xương. Mặt khác
          đã nhận thấy vết gãy không ở đốt xương sông (nonvertebral fractures)  có thể là do
          tác động điều trị Auorur (Auoride therapy) (23)
              Các khảo sát gần đây đã nhận thấy khi sử dụng liều Auorur 25mg/ngày đã tăng
           mật độ xương cột sốhg, háng và giảm tỷ lệ gẫy xương sông (vetebral tracture) (24).
               Vỉ khoáng: khi tăng lượng Boron trong khẩu phần có thể tác động tâi bài tiết
          calci phospho,  manhê và  đồng thời tăng mức estradiol  huyết thanh.  Kết quả khảo
          sát trên đã xác định boron có vị trí giữ cân bằng calci, nhưng cơ chế tác dụng chưa
          được làm rõ. Ngoài ra, măng gan, kẽm và đồng cũng là các đồng yếu tố cần thiết cho
           tác động của men tới mô xương.

           2.3.  Các yếu tố  khác gây nguy cơ gẫy xuơng
               Trọng lượng và thành phần ctí thể: trọng lượng cơ thể có liên quan trực tiếp
           tới  mật  độ xương,  và  chiểu  cao  cân  nặng cơ  thể cân  đốĩ,  sẽ  bảo vệ  không  để  gẫy
           xương. Ngoài trọng lượng cơ thể và khối lượng xương còn có hai yếu tố tác động tối
           cơ chế cấu tạo xương là khối lượng mỡ ở các mô và mô mỡ.  Đặc biệt nếu cơ thể quá
           nhiều mõ sẽ tăng nguy cơ gây bệnh mạn tính.

              Hút thuốc lá: nghiện thuốc lá sẽ gây giảm mật độ xương nhanh hơn nhóm không
           hút thuốc và nếu uôhg nhiều cà phê, rưỢu, thời kỳ mãn kinh sẽ đến sớm hơn (25).
              Hoat động thê lực: hoạt động aerobic thể lực  sẽ tăng và  giữ ổn  định  mật  độ
           xương, đặc biệt là bộ khung xương có liên quan trực tiếp đến hoạt động thể lực. Với
           nữ sau mãn kinh cần khuyến cáo luyện tập aerobic 20 phút,  3 lần trong một tuần
           cùng vói hoạt động thể dục thường xuyên hàng ngày sẽ giúp ổn định mật độ xương
          và giảm các nguy cơ gẫy xương do ngã (26).
               Yếu tố  di truyền: cũng giông như môn nhân trắc học đo cơ thể người,  đo mật
           độ  xương  có  nhiều  điểm  giống  nhau  và  đặc  biệt  ảnh  hưởng  của  yếu  tố gen,  di
           truyền và môi trường đã tác động đến khôi lượng và tỷ lệ tổn thất xương hoặc tác
           động tối cả hai.


           306
   309   310   311   312   313   314   315   316   317   318   319