Page 313 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 313

bổ sung calci đều hàng ngày sẽ giảm tổn thất xương,  nhưng không có tác dụng với
      nữ  trưốc  và  sau  tuổi  mãn  kinh.  Với  người  già,  sử  dụng bổ sung calci  trong  khẩu
      phần nhận thấy tác động giảm tổn thất xương chưa có hiệu quả rõ rệt.
          Vitamin D: vitamin D được bổ sung thêm vào khẩu phần ở dạng ergocalciíerol
      hoặc  cholecalciferol,  hoặc  phơi  nắng  để  tạo  điều  kiện  tổng  hỢp  vitamin  ở  các  mô
      dưới da. Đó là hydroxyl hoá 25-hydroxy vitamin D (25 (OH) D, hoặc calcidiol) trong
      gan  sau  đó  chuyển  hoá  1,25-dihydroxy  vitamin  D  (1,25  (OH)2  D  hoặc  calcitriol)
      trong thận;  1,2 (OH)2 D kích thích sự hâ'p thụ calci qua ruột và giữ sự vẹn toàn của
      xương. Mức 25 (OH) D trong huyết tương đưỢc xem là chỉ sô" vitamin D của cơ thể.
      Tại Mỹ và cộng đồng châu Âu,  ngưòi già thường phải uống thêm  2,5  mcg (100 IU)
      vitamin D bằng 1/2 nhu cầu khuyến cáo của Hoa Kỳ. Năm  1997 lượng ăn vào thoả
      đáng (AI,  adequate intake)  vitamin  D  được  tăng gấp  đôi  là  10  mcg/ngày cho  nữ ở
      tuổi trên 51  gấp 2 lần theo khuyến cáo của uỷ ban Dinh dưỡng Hoa Kỳ  1989  là  5
      mcg cholecalcilerol (12).
          Phospho: khẩu phần ăn có lượng phospho cao sẽ tăng nồng độ phospho huyết
      thanh và kích thích sự bài tiết tuyến cận giáp PTH (parathyroid hormone) và ngược
      lại sẽ ức chế sự sản xuất  l,25-(OH)2 D và  sự hấp  thu calci tại ruột.  Tỷ lệ  phospho
      calci thường có vị trí quan trọng hơn mức phospho khẩu phần có lượng phospho cao
      (55 mmol hoặc  1700 mg/ngày) và calci thâ"p (10 mmol/ngày sẽ tăng sản xuất và bài
      tiết hormon cận giáp  trạng (PTH)  (42).  Nêu  kéo dài  sự  thiếu  phospho  trong khẩu
      phần  ăn,  có  thể  giảm  nồng  độ  phospho  huyết  thanh  và  tăng  sự  tiêu  huỷ  chất
      khoáng trong xương. Nồng độ phospho thấp trong huyết thanh còn do yếu tô" thiếu
      dinh dưõng, sử dụng quá nhiều hỢp chất phospho liên kết kháng acid (phosphorus-
      binding antacids) và sự kém hấp thụ ở ruột.
          Protein:  đốì  với  các  nước  công  nghiệp  phát  triển,  lượng  protein  trong  khẩu
      phần thường vượt  quá  50%  nhu  cầu và  sự  dư  thừa  protein  đã  gây  tăng  nguy  cơ
      bệnh loãng xương mặc dù đã có sự điều chỉnh lượng calci trong cơ thể, nhưng nếu
      dưối  mức nhu cầu  qui  định,  sẽ  có  tác  động xấu  đô"i với  cơ  thể,  đặc biệt với người
      già.  Các  bệnh  nhân  dễ  bị  gẫy  xương  thường  thiếu  protein  và  năng  lượng  trong
      khẩù phần.
          Natrỉ: Natri gây tăng sự bài tiết calci.  Nếu lượng Na bài tiết quá  l-6g/ngày sẽ
      có  tác động xấu  đến  mật độ  xương háng và  tăng thải  trừ natri  qua  nưốc tiểu.  Để
      hạn  chê"  tới  mức  thâ"p  nhâ"t  sự  tổn  thầ"t  xương,  cần  sử  dụng  khoảng  25mmol
      (lOOOmg) calci và không nhiều hơn 87 mmol (2000 mg) natri/ngày (17).
          Caffein: khi  uô"ng cà phê có chứa caffein khoảng  1  -  3 giờ sau sẽ  tăng sự thải
      trừ calci qua nước tiểu (18).  Đã có tác giả khảo sát với đô"i tượng nữ sau mãn kinh
      khi uốhg hàng ngày 2 cô"c và phê đã giảm mật độ xương,  nếu không uống sữa đều
      hàng ngày (19).
          Vối nữ khi sử dụng khẩu phần calci dưới mức nhu cầu  trong ngày và  uốhg cà
      phê  nhiều hơn  2-3 cô"c ngày,  sẽ  gây tổn thương xương nhanh hơn.  Uốhg cà phê có
      thể còn gây nguy cơ gẫy xương háng với đối tượng nữ ở tuổi già (20).

          Cồn  rưỢu:  nghiện  rưỢu  nặng  đã  gây  bệnh  x ô " p   loãng  xương  ở  nam  giói,  cồn
      rượu  trực  tiếp  tác  động  ảnh  hưởng  đến  sự  hình  thành  xương và  gây  sự  thiếu  hụt


                                                                                        305
   308   309   310   311   312   313   314   315   316   317   318