Page 311 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 311

1.7.  Sự tạo xương không hoàn chỉnh (01, osteogenensis imperfects)

         Sự tạo xương không hoàn chỉnh (01) thường do một sô" nguyên nhân trong đó có
     rối  loạn  do  đột  biến  gen,  được  mã  hoá  bởi  các  phân  tử  tạo  keo  tại  khuôn  xương.
     Bệnh  nhân  bị  10  có xương  mỏng  mảnh  dễ  vỡ,  giảm  khối  lượng  tạo  thành  xương.
     Trong  phân  tử  tạo  keo  khi  một  số acid  amin  khác  thay  thế glycin,  vòng  xoắn  3
     (triple  helix)  không  đưỢc  xoắn  chặt,  sự  tổng  hỢp  chất  tạo  keo  bị  giảm  và  khuôn
     protein không bình thường. Khuyến tật tạo keo có thể trầm trọng, phụ thuộc vào sự
     thay  thê  dãy  phân  tử  tạo  keo.  Nếu  phù  hỢp  khúc  xương  gẫy  có  thể  lành  bình
     thường. Nếu mô liên kết tạo keo không thích hỢp có thể tác động tối quá trình cấu
     tạo xương, gây khuyết tật ngà răng, gân,  dây chằng và củng mạc (7). Mặc dù triệu
     chứng  lâm  sàng  đã  hiển  nhiên  nhưng  nguyên  nhân  giảm  khôi  lượng  xương  vẫn
     chưa được giải thích rõ (8).

         Bệnh nhân bị viêm gan mạn tính, đặc biệt là gan mật hoặc ghép gan,  suy thận
     dễ  bị bệnh  về xương  như xốp  xương,  nhuyễn  xương và  bệnh  tăng tuyến  cận  giáp
     xương (9,  10). Ngoài ra bệnh nhân bị rôì loạn tiêu hoá ruột non, đặc biệt là hấp thu
     kém  các vitamin tan  trong dầu  sẽ  tăng sự bài  tiết calci,  manhê vào  dịch tiêu  hoá.
     Kết  quả  cơ  thể  sẽ  thiếu  vitamin  D,  calci  và  manhê  và  dẫn  tới  nguy cơ  mắc bệnh
     loãng xương và nhuyễn xương.


     2.  Dinh dưõng và bệnh loãng xương
         Loãng xương còn đưỢc xác định là do các mô liên kết xương không đưỢc tiếp tục
     tái  tạo bổ sung tại vỏ  ngoài  (outer cortical suríaces)  và  tổ chức bè  dải  thớt xương
     (trabeculae). Tại Mỹ, hàng năm có khoảng 1/2 triệu người bị loãng xương dễ bị nguy
     cơ gẫy xương tại cột sông, cô tay và háng.  Đặc biệt có thể trở thành tàn tật khi bị
     gẫy  cột  sổhg hoặc  xương háng.  Cách  đây  50  năm  Albright  và  c s   đã  khảo  sát  và
     nhận thấy phụ nữ sau thòi kỳ mãn kinh dễ bị mắc bệnh loãng xương (11) và khẩu
     phần ăn, sự rổì loạn chuyển hoá, ít vận động là nguyên nhân gây bệnh.

     2.1.  Đánh giá m ật độ xương BMD (Bone mineral density)

         Ngoài phương pháp chẩn đoán lâm  sàng còn sử dụng hấp thụ kế chiếu các tia
     kép  photon,  tia  kép X  (dual X ray)  vào các  mô bắp  thịt cột sốhg,  háng và  toàn cơ
     thể,  ở đó có các lốp  mô mỏng dày bao bọc quanh  xương.  Mật độ xương sẽ tỷ lệ với
     tổng năng lượng được hấp thu và năng lượng chiếu qua các tô chức bộ phận cơ thể
     có xương ở phía đốì xứng.  Hiện đã có máy hấp thụ kế sử dụng tia X có bức xạ thấp
     (low-radiation X-ray) thay thế hâ"p thụ kế cũ sử dụng nguồn năng lượng photon.
         Thiết bị định lượng chụp renghen cắt lớp  (quantitative computed tomography)
     (QCT)  và  định  lượng bằng siêu  âm  là  hai kỹ thuật  được  lựa  chọn trong  đánh  giá
     trạng thái xương, trong đó thiết bị đo siêu âm,  đánh giá tác động, làm giảm tốc độ
     của sóng siêu âm đi qua tổ chức xương và mô.
         Thiết bị đo mật độ xương (BMD) bằng siêu âm hiện được đánh giá cao hơn do
     thiết bị không phức tạp,  an toàn và có độ chính xác cao như thiết bị chụp renghen
     cắt lớp.


                                                                                      303
   306   307   308   309   310   311   312   313   314   315   316