Page 312 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 312
2.2. Dịch tễ học bệnh loãng xương
Dịch tễ học bệnh loãng xương phụ thuộc vào phương pháp đưỢc sử dụng để xác
định các rối loạn trong chuyển hoá gây bệnh và trạng thái các chấn thương gẫy
xương, là yếu tô" rất quan trọng để xác định bệnh. Tai nạn gẫy xương có tỷ lệ cao ở
tuổi trên 40 ở háng, cột sống và tăng theo tuổi ở cả nam và nữ. ở tuổi 50 nữ có nguy
cơ bị loãng xương (khoảng 30%) so với nam (13%). Nhưng ở tuổi 80 hoặc già hơn tỷ
lệ loãng xương là 70%. Sự phát triển trong giai đoạn tuổi thơ luôn làm tăng khối
lượng xương, trong đó khối lượng xương phát triển rất nhanh ở tuổi từ 11 - 14 với
nữ và từ 13 - 17 vối nam.
Tai nạn gẫy xương có tỷ lệ cao ở tuổi thơ ấu sẽ giảm dần cho tối tuổi 40, sau đó
lại tăng theo tuổi và nữ tăng cao sau tuổi mãn kinh, do mật độ xương giảm. Gây
xương phổ biến là xương quay (radius) với nam trên 55 tuổi và nữ trên 65, xương
đùi, háng, cột sống và đốt sông có thể sẽ dẫn đến gù hoặc gẫy xương chậu hông,
xương cô chân, xương sườn và xương bánh chè (12)...
Có khoang trên 90% gây xương do ngã trượt chân, vì tuôi cao, khó giữ cân băng
cơ thể, mắt kém và tổ chức cơ, xương mềm yếu...
2.3. Dinh dưỡng liên quan đến m ật độ xương và bệnh loãng xương
Có khá nhiều yếu tô" có liên quan đến bệnh loãng xương, khổì lượng và mật độ
xương trong cơ thể. Calci, phospho một sô" vi khoáng và protein là thành phần cơ
bản của mô xương. Vitamin D điều hoà cân bằng chuyển hoá calci và một loạt các
chất dinh dưỡng có liên quan khác, có tác động tăng hấp thu và bài tiết calci trong
cơ thể. Khẩu phần ăn có đủ các thành phần dinh dưõng trên sẽ tác động đến sự hấp
thu chuyển hoá tạo xương nhưng còn phụ thuộc vào tuổi phát triển của cơ thể, tuổi
già và thời kỳ mãn kinh.
Calci: để bảo đảm khối lượng xương trong cơ thể, bắt đầu từ tuổi thơ â"u cho
tới tuổi thành, uỷ ban dinh dưỡng Hoa Kỳ năm 1988 đã khuyến cáo nhu cầu đảm
bảo calci từ 11-24 tuổi cần 1200mg hoặc 30 mmol/ngày. Tới năm 1997 cũng uỷ ban
trên để nghị tăng lên 1300 mg (32,5 mmol/ngày) vói đốì tượng từ 9 - 18 tuổi (13).
Tăng lượng calci trong khẩu phần ăn của nữ trong suô"t thòi kỳ trưởng thành sẽ
tránh được giảm khối lượng xương và tăng độ vững chắc cho các xương hông, xương
trụ xương cánh tay. Đã có nhiều tác giả theo dõi khảo sát vối nữ có khẩu phần ăn
vâi lượng 400mg (10 mmol) calci ngày đã giảm mật độ xương tại cột sông, xương
háng, xương quay (14) và khi tăng thêm lượng calci khẩu phần đã nhận thấy mật
độ xương háng tăng rõ rệt với đô"i tượng có hoạt động thể lực cao (15). Theo dõi thử
nghiệm với đô"i tượng nam giói tuổi từ 30 - 87 tuổi đã quen sử đụng lượng cao calci
27,4 mmol (1100 mg) ngày, tiếp theo được bổ sung calci trên 3 năm liên tục 25
mmol/ngày vẫn nhận thấy sự giảm xương cột sống (4, 15). Thử nghiệm xác định
trên đã cho thấy dù sử dụng lượng calci cao gấp ba lần nhưng hiệu quả tăng khối
lượng và mật độ xương không có hiệu quả (16).
Tóm lại, trong nhiều khảo sát thử nghiệm có theo dõi vói nhóm đối chứng đã
xác định trẻ em, tuổi trưỏng thành, người lớn, người già, calci đã hỗ trỢ và giữ đưỢc
khối lượng xương, giảm sự tổn thất xương, tăng mật độ xương. Khẩu phần ăn đưỢc
304