Page 148 - Đề Hùng Và Tín Ngưỡng Thờ Cúng
P. 148

raỌM BÁ KMẺM


       Theo cương vực phạm vi địa lý ấy, đây là  1 vùng đất cổ có dầy
     đặc các di sản văn hóa (cả di sản vật thể và di sản ván hóa phi vật
     thể). Dấu vết của các di chỉ khảo cổ học và di sản văn hóa dân gian
     (Polklore)  đã giúp ta nhận diện vế vùng đất được gọi là Kinh đô
    Văn Lang ấy.
       Chuyện xưa kể rằng: “Vua Hùng đi nhiêu nơi để tìm đất đóng
     đô. Đi mãi nơi này, nơi khác mà chưa chọn được nơi nào hợp ý để
    định đô. Mãi tới khi di tới một vùng đất, trước mặt có 3 con sông
    tụ lại, 2 bên có Tản Viên, Tam Đảo chầu về, có đồi gẩn núi xa, có
    ruộng  đống  tốt  tươi,  có  cư  dân  đông đúc.  Giữa miến  đất đó lại
    có một quả núi cao hẳn lên như đầu một con rồng lớn hướng vể
    phương Nam, còn những dãy kia như những khúc của thân rông
    uốn lượn.  Vua cả mừng thấy nơi đầy núi non kỳ tú, đất tốt sông
    sâu,  cây cối xanh tươi.  Đất có thế hiểm để giữ, có thế thoáng để
    mở,  có  mặt đất  rộng mà bằng phẳng cho muôn  dán tụ hội. Vua
    Hùng chọn là đất đóng đô. Đó là kinh đô Văn Lang xưa”.
                   (Nguyễn Khắc Xương ~ Truyền thuyết Hùng Vương,

                Hội Văn nghệ dân gian  Vĩnh Phú xuất bản năm 1974)


       Trong nhiếu thư tịch cổ chép bộ Văn Lang thòỉi các Vua Hùng
    dựng nước ở vào khu vực trung châu hợp lưu của 3 dòng sông lớn:
    Sông Đà, sông Thao và sông Lô; bao gồm một vùng đất đai rộng
    lớn từ thếm Ba Vì tới chàn Tam Đảo (gốm Phú lliọ, Vĩnh Phúc và
     1  phần Hà Nội ngày nay). Địa bàn này chia ra làm 3 miền rõ rệt:
    miền  gò  đồi  đất giữa do  thềm  phù  sa cổ được nâng lên bởi vận
    động tạo  sơn;  miến  đổng bằng màu mỡ do  hợp  lưu  của  3  dòng
    sông lớn tạo thành.
       Trên vùng đất đó  các nhà nghiên cứu đã làm xuất lộ và khai
    quật trên  100  di tích khảo cổ học gồm đủ các giai đoạn văn hóa
    từ Sơn Vi, Phùng Nguyên, Đổng Đậu, Gò Mun đến Đông Sơn. Sự
   143   144   145   146   147   148   149   150   151   152   153