Page 71 - Đánh Giá Cạnh Tranh Trong Một Số Ngành Dịch Vụ Của Việt Nam
P. 71
Chứng khoán 71
116/2005/NĐ-CP liên quan đến năng lực tài chính, năng lực công
nghệ, quyền sở hữu và sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp và quy
mô mạng lưới phân phối.
Một nhóm doanh nghiệp cũng được coi là có vị trí thống lĩnh
nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và có thị phần kết
hợp trên thị trường liên quan ở các mức: 2 doanh nghiệp: 50% trở lên,
3 doanh nghiệp: 65% trở lên, 4 doanh nghiệp: 75% trở lên.
Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có
doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp
đó kinh doanh trên thị trường liên quan. Về bản chất, doanh nghiệp có
vị trí độc quyền là doanh nghiệp nắm 100% thị phần trên thị trường
liên quan (một trường hợp đặc biệt của doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh). Do đó, các hành vi bị cấm đối với các doanh nghiệp này là
tương tự nhau. Doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp được coi là vi
phạm Luật Cạnh tranh nếu như nắm giữ sức mạnh thị trường (vị trí
thống lĩnh) và lạm dụng sức mạnh đó để thực hiện một trong số các
hành vi dưới đây nhằm gây hạn chế tới cạnh tranh trên thị trường:
- Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm
loại bỏ đối thủ cạnh tranh;
- Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn
định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;
- Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị
trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho
khách hàng;
- Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như
nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh;
- Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua,
bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các
nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
- Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh
tranh mới.
Ngoài các hành vi bị cấm áp dụng đối với doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh, doanh nghiệp có vị trí độc quyền còn bị cấm (i) áp đặt các