Page 69 - Đánh Giá Cạnh Tranh Trong Một Số Ngành Dịch Vụ Của Việt Nam
P. 69

Chứng khoán                                                                                     69

            nhưng chỉ mang tính chất nêu ra chứ không có những quy định rõ ràng
            về thủ tục và hình thức xử lý.

                  Sau 4 năm soạn thảo với sự tham gia góp ý từ phía các cơ quan
            quản lý nhà nước cũng  như đông đảo cộng đồng quan tâm, ngày 3
            tháng 12 năm 2004 Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội thông qua và
            có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2005. Luật Cạnh tranh và
            các văn bản hướng dẫn được ban hành, hoạt động cạnh tranh trong
            lĩnh vực kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam đã được điều chỉnh
            bao gồm nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành
            mạnh. Thông qua việc kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh và
            cạnh tranh không lành mạnh, Luật Cạnh tranh sẽ bảo vệ quyền kinh
            doanh chính đáng của các CTCK, góp phần tạo lập và duy trì một môi
            trường kinh doanh bình đẳng.

                  1.1. Hành vi hạn chế cạnh tranh
                  Theo khoản 3 Điều 3 của Luật Cạnh tranh, hành vi hạn chế cạnh
            tranh là “hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh
            tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh,
            lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập
            trung kinh tế”.
                  Cũng theo quy định của Luật Cạnh tranh, tổ chức, cá nhân có
            hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể bị
            xử phạt lên tới 10% tổng doanh thu trong năm  tài chính trước năm
            thực hiện hành vi. Ngoài ra, tổ chức, cá nhân đó có thể phải chịu các
            hình thức xử phạt bổ sung như thu hồi giấy chứng nhận kinh doanh,
            tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm... và các biện
            pháp khắc phục hậu quả được quy định tại Điều 117 Luật Cạnh tranh.
                  1.1.1. Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

                  Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn không trực tiếp nêu
            khái niệm về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, tuy nhiên có 3 dấu hiệu
            để nhận biết các hành vi này: thứ nhất là phải có sự thỏa thuận của 2
            hay nhiều doanh nghiệp, thứ hai thỏa thuận này làm giảm, sai lệch hay
            cản trở cạnh tranh trên thị trường và thứ ba là thị phần kết hợp trên thị
            trường liên quan của các bên tham gia vào thỏa thuận. Xét theo mức
            độ tác động tới môi trường cạnh tranh, Luật Cạnh tranh đã phân các
   64   65   66   67   68   69   70   71   72   73   74