Page 196 - Các Chuyên Đề Về Nguy Cư Sức Khỏe
P. 196
Nguồn lương thực và thực phẩm chính là gạo, ngô, khoai, cùng vói một sô'
củ, quả, rau xanh có thế đáp ứng đủ nhu cầu sinh sống gia đình. Song, thực
phẩm nguồn động vật không thường xuyên được đáp ứng, do điểu kiện chăn
nuôi nhỏ lẻ hộ gia đình bị thu hẹp. Bởi vậy chất lượng bữa ăn thường ngày vẫn
còn thấp, thành phần dinh dưỡng chưa được chú trọng, thịt cá không có thường
xuyên. Bữa có thịt cá thường dành cho ngày có khách, mua từ chợ. Gà vịt chăn
nuôi được không nhiều, thường dành cho lúc gia đình có công việc như lễ tết,
cúng bái, sinh nhật, cưới xin, ma chay...
3.3. Sô" lượng, chât lượng, thành phần và cơ câ*u bửa ăn chưa hỢp lý
Sông trong những điểu kiện địa lý tự nhiên khác nhau, mỗi dân tộc có lịch
sử phát triển và có nền văn hoá khác nhau. Trong đó có văn hóa ẩm thực, thông
qua các món ăn và bữa ăn, có tác động trực tiếp đến sức khỏe con người, đặc biệt
là đối tượng phụ nữ chịu nhiều ảnh hưởng nhất.
Bữa ăn của người Tày, Nùng, H’Möng, Mường, Dao... và các dân tộc miền
núi khác thường ăn hai bữa một ngày, ngày mùa ăn ba bữa. Món ăn truyền
thống là cơm gạo tẻ hoặc bột ngô đồ. Các món ăn chủ yếu là rau được trồng ở
gần nhà và lấy từ rừng, chế biến thành món xào và canh. Thức ăn còn được chế
biến từ một số loại hạt và củ như lạc, đỗ, khoai... Thực phẩm chủ yếu là tự cung
tự cấp, có gì ăn nấy, trừ những thứ như muổì, mắm, mõ được mua ở chợ.
Phụ nữ các dân tộc miền núi đã tiến bộ nhiều, các phong tục tập quán cổ
xưa và thói quen lạc hậu, về cơ bản đã loại bỏ. Tuy nhiên, đại bộ phận dân tộc
thiêu số ơ vùng sâu vùng xa lại vẫn lưu giữ, trong đó có những thói quen ăn
kiêng của PNCT, có những quan niệm sai trái về dinh dưõng khi mang thai...
Điển hình cho kiêng kỵ trong ăn uống là sự kiêng kỵ của PNCT, sản phụ
sau .khi sinh nở và nuôi con bú. Trưỏc đây và ngay cả hiện nay, nhiều dân tộc
cho ràng khi mang thai, người phụ nữ làm việc chăm chỉ thì mới đẻ dễ. Ngược
lại, ngưòi nào nghỉ ngơi nhiều trưốc sinh sẽ sinh nỏ khó khản, nên khi mang
thai, người phụ, nữ không những không được bồi dưỡng thức ăn riêng, mà lại
càng phải cô" gắng làm nhiều việc hơn nữa, trong khi đồ ăn thức uống, thì ngưòi
mang thai vẫn ăn uống như mọi người trong gia đình. Một sô" dân tộc còn cho
rằng PNCT nên ăn những món ăn trơn, nhớt thì việc sinh nở sẽ dễ dàng, trong
khi những loại rau đó lại ít giá trị dinh dưỡng. Chính vì vậy, trong tháng cuối,
những loại rau nhớt như mồng tơi, rau lang, rau dớn, rau đay... được PNCT ăn
nhiều hơn.
4. ĐIỂU TRỊ VÀ PHÒNG CHốNG THIÊU MÁU DINH DƯỠNG Ở PNCT
4.1. Điều tri thiếu máu ở phu nử có thai
Tìm nguyên nhân thiếu máu để điều trị, tuy nhiên uống viên sắt và tăng
cường bồi dưỡng bằng đưòng àn uống là chủ yếu. Uống viên sắt với liều thông
thường là 60-120 mg sắt nguyên tô' mỗi ngày (1*2 viên) và 0,5mg acid folic, kèm
theo V i t a m i n B, c . Ă n uốing b ồ i dưỡng t h ị t , cá, trứng, sữa...
196