Page 196 - Chính Sách Thương Mại Đối Với Sự Phát Triển
P. 196
Chính sách thương mại đối với sự phát triển ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
hoạt động trợ giúp phát triển DN CNHT chưa được tách riêng
ra trong ngân sách hoạt động chung của đơn vị cho nên chưa
ước tính được các chi phí quản lý chương trình - chính sách
chiếm tỷ lệ bao nhiêu phần trăm trong tổng số tiền hỗ trợ trực
tiếp đến với các DN. Vì vậy chưa có đủ nguồn số liệu để kết
luận về chất lượng của công tác điều hành. Trong thời gian
tới, cần lưu giữ số liệu về phân bổ kinh phí hoạt động và quỹ
thời gian làm việc của cán bộ cho từng chương trình cụ thể để
có thể tiến hành so sánh và đánh giá hiệu quả và mức độ cải
thiện trong chất lượng điều hành. Theo thông lệ, công tác
điều hành được đánh giá là đạt hiệu quả khi ngân sách chi
cho bộ máy điều hành chiếm tỷ lệ thấp hơn 5% trong tổng
kinh phí hỗ trợ đến với DN.
Các báo cáo tổng kết đánh giá của các Bộ ban ngành về
các chính sách hỗ trợ phát triển DN CNHT đều nêu lên một
số điểm hạn chế chung của các chính sách hỗ trợ, đó là: các
quy định vẫn còn thiếu đồng bộ và chồng chéo, thủ tục hành
chính vẫn còn rườm rà, sự phối hợp giữa các cơ quan chức
năng chưa được chặt chẽ, các chứng từ thủ tục tài chính quá
chặt chẽ, phức tạp mất nhiều thời gian. Một tỷ lệ không nhỏ
các DN CNHT có biết đến các chương trình hỗ trợ nhưng do
thủ tục hành chính vẫn còn thiếu công khai minh bạch và mất
thời gian cho nên vẫn là một trở ngại đáng kể cho các DN
CNHT tiếp cận với các chính sách hỗ trợ cho nên vẫn có
nhiều DN vẫn chưa thực sự quan tâm đến các chính sách hỗ
trợ. Một lý do của sự chồng chéo trong các chính sách hỗ trợ
phát triển DN CNHT là do chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu
chung về tình hình hoạt động của các DN CNHT, vì vậy
thông tin về tình hình hoạt động và nhu cầu của các DN
CNHT ít được thường xuyên cập nhật, khó tránh khỏi tình
trạng chồng chéo trong việc đề xuất các chính sách hỗ trợ.
196